1. Vào mỗi mùa trao giải Nobel, Nobel Văn
học luôn là giải thưởng tạo ra nhiều sự tranh cãi. Ngoài lí do văn chương luôn
có những đánh giá khác nhau dựa trên nhiều cách đọc; giải thưởng Nobel còn tạo
hay trao cho những gương mặt quá mới mẻ như Cao Hành Kiện (Nobel 2000), Herta
Muller (Nobel 2009) hoặc những người dính líu đến chính trị như Orhan Pamuk
(Nobel 2006).
Chính vì sự khó lường nên không chỉ được
những người trong nghề theo sát từng giờ mà còn là dịp để… dân cá cược trổ tài!
Hai ngày trước giờ công bố giải thưởng, nhiều người đã tin tưởng đổ tiền để đưa
nhà thơ Adonis (Xi-ri) lên đầu bảng với tỷ lệ cá cược là 4/1. Adonis được
đặt nhiều kỳ vọng vì từ lâu ông được đánh giá là nhà thơ viết bằng ngôn ngữ
Ả-rập quan trọng nhất; mặt khác, Adonis được “tiếng thơm” khi lên tiếng phê
phán chính phủ Xi-ri không nên đàn áp người biểu tình.
Một nhà văn khác luôn đứng đầu danh sách
dự đoán là Haruki Murakami (Nhật Bản) với tỷ lệ 8/1. Tuy nhiên, tác giả tiểu
thuyết Rừng Na Uy thuộc kiểu nhà văn
ăn khách thường không được Viện Hàn lâm Thụy Điển để ý. Một dạng nhà văn khác
cũng không được dân cá cược tin tưởng đó là những nhà văn cách tân mà đại diện
là Thomas Pynchon-tác giả tiểu thuyết Cầu
vồng của trọng lực.
Trường hợp nhà thơ Tomas Tranströmer của
nước chủ nhà Thụy Điển được xem là có nhiều biến động kỳ lạ tại nhiều hãng cá
cược. Lúc đầu, ông ở vị trí cao với tỷ lệ cá cược ở tầm 7/1. 10 tiếng trước khi
công bố giải thưởng, ông bị văng ra khỏi tốp 5-điều mà chẳng mấy người ngạc
nhiên vì quy luật trên đã diễn ra nhiều năm. Nhưng bất ngờ 7 giờ đồng hồ sau,
dân cá cược khắp nơi dồn tiền vào cái tên Tomas Tranströmer khiến ông vọt lên
đầu bảng. Và vào lúc 13 giờ (tức 18 giờ theo Việt Nam) ngày 6-10, Peter Englund-Thư
ký thường trực của Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố: Tomas Tranströmer là người
đoạt giải Nobel văn học 2011.
2. Dân cá cược dồn tiền vào cái tên Tomas
Tranströmer sát giờ công bố giải xuất phát từ những suy luận logic: Giải
năm nay đã được dự đoán sẽ trao cho một nhà thơ vì kể từ Wisława Szymborska
(Nobel 1996) chưa nhà thơ nào được vinh danh. Nếu là nhà văn Thụy Điển thì kể
từ năm 1974 khi bộ đôi nước chủ nhà là Eyvind Johnson và Harry Martinson ẵm
giải, Viện Hàn lâm Thụy Điển chưa trao cho những người đồng hương thêm một lần
nào. Mặt khác, nếu trao giải cho Adonis, Viện Hàn lâm Thụy Điển gần như công
khai ủng hộ làn sóng cách mạng “Mùa xuân Ả-rập” vẫn còn nóng bỏng, qua đó tạo
ra những tranh cãi không cần thiết. Mấy yếu tố trên chỉ là phụ, cái chính là sự
nghiệp thơ của Tomas Tranströmer đã được khẳng định với toàn thế giới khi thơ
ông được dịch ra hơn 60 ngôn ngữ khác nhau và vô số các giải thưởng văn học
quan trọng như: Giải Aftonbladets, Giải Bonnier cho thơ, giải Neustadt, giải
Petrarca-Preis… Vì vậy, Nobel năm nay là một Nobel xứng đáng và sẽ không gây ra
sự tranh cãi.
Tiểu sử cuộc đời của Tomas Tranströmer sẽ
không làm nhiều người ưa chuyện giật gân thích thú. Ông không phải là mẫu nhà
văn thích xê dịch như Jean-Marie Gustave Le Clézio (Nobel 2008) hay tham gia
hoạt động chính trị như Mario Vargas Llosa (Nobel 2010)…, cả đời ông làm việc
trong ngành tâm lý học (chuyên nghiên cứu tội phạm vị thành niên) và lặng lẽ
sáng tác thơ. Đến ngay như quan niệm làm thơ của ông cũng rất giản dị: “Viết
một bài thơ chẳng bao giờ dễ dàng, nhưng khi có thể viết được, thì đó là một
thứ tâm trạng vui chơi nhưng đồng thời lại nghiêm túc”.
Tomas Tranströmer sinh ngày 15-4-1931 tại
thủ đô Stockholm,
trong một gia đình trí thức (bố là nhà báo và mẹ là giáo viên). Ông bén duyên
với thơ ca từ khi còn học phổ thông với nhiều bài thơ xuất hiện trên các báo.
Thi tài của ông được khẳng định ở quê nhà ngay từ tập thơ đầu tiên mang tên 17
bài thơ (1954). Các tập thơ tiếp theo khẳng định Tomas Tranströmer là nhà thơ Bắc
Âu vĩ đại nhất còn sống. Tên tuổi của ông cũng sớm vượt ra ngoài biên giới Thụy
Điển nhờ bản dịch tiếng Anh của nhà thơ Mỹ Robert Bly và nhanh chóng được xem
như như một bậc thầy thơ ca. Nhà thơ Joseph Brodsky (Nobel 1987) ca ngợi Tomas
Tranströmer: “Nhà thơ có tầm quan trọng bậc nhất, có sự thông minh không thể
tưởng tượng nổi… Tôi đã đánh cắp hơn một ẩn dụ của ông”.
Sức hút của Tomas Tranströmer sớm lan đến
các nhà thơ-dịch giả Việt Nam
biết đến từ những năm 1980. Đặc biệt, cuốn sách: Toàn tập thơ: Mười một tập (1954-1996) dày hơn 300 trang của Tomas
Tranströmer đã được nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh (N.X.S) chuyển ngữ từ tiếng Pháp
do NXB Văn học ấn hành năm 2000 với sự đồng ý của tác giả và sự tài trợ của
Viện Thụy Điển ở Stockholm. Một số bài thơ trong cuốn sách này cũng được trichs
trong cuốn Thơ Thụy Điển (NXB Hội nhà văn, 2009).
3. Thành thực mà nói, để nắm bắt đầy đủ
nghệ thuật thơ Tomas Tranströmer phải là một người biết tiếng Thụy Điển. Do quá
trình dịch thơ nên tính nhạc trong thơ Tomas Tranströmer bị mất đi rất nhiều.
Tuy nhiên, những gì còn lại, nhất là cách ông nhìn con người và thế giới vẫn đủ
giúp người đọc hình dung về một tài năng thơ ca hiếm có. Lời nhận xét của Viện
Hàn lâm Thụy Điển có thể xem là một dẫn nhập hữu ích để tiến vào thế giới thơ
Tomas Tranströmer: “Qua những hình ảnh súc tích và trong mờ, ông đưa chúng ta
tiệm cận sự mới mẻ của hiện thực. Ông viết về những vấn đề lớn: Về cái chết,
lịch sử, ký ức, thiên nhiên. Bạn không bao giờ cảm thấy nhỏ bé sau khi đọc thơ
của Tomas Tranströmer”. Tuy hình thức thơ Tomas Tranströmer thay đổi theo thời
gian nhưng tựu chung ông luôn là người đổi mới ngôn ngữ thơ ở hình tượng thông
qua phép ẩn dụ. Nhờ vậy, mỗi hình ảnh được đổi mới sẽ gián tiếp giúp người đọc
có cái nhìn mới mẻ, trong sáng, hồn nhiên và sống động trước một sự vật hay sự
việc tưởng chừng đã được thấu hiểu.
Ở giai đoạn đầu sự nghiệp, nhất là tập
thơ đầu tay, Tomas Tranströmer ưa thích hình thức thơ cổ điển có vần luật với
sự miêu tả đầy lãng mạn, qua giọng thơ thể hiện sự chính xác của cảm quan,
chẳng hạn như bài thơ Ostinato (Thuật ngữ âm nhạc chỉ sự lặp lại nhạc điệu
giọng trầm):
Dưới
cái điểm bất động của xác thuyền đắm giạt vào bờ, đại dương vung vẩy và gầm lên
trong ánh sáng, mù quáng gặm hết dãy hàng rào cỏ biển, và thổi phả bọt sóng vào
bờ.
Mặt
đất tự bao phủ mình bằng lớp dày bóng tối đàn dơi bay đo chiều dài bằng tầm
cánh bay. Xác thuyền đắm đứng im và tự biến thành ngôi sao. Đại dương tiến về
phía trước vừa gầm rú vừa thổi bọt sóng vào bờ. (N.X.S dịch).
Song, ở những tập thơ tiếp theo, Tomas
Tranströmer có sự chuyển đổi thi pháp theo hơi hướng của chủ nghĩa siêu thực
(surréalisme) với những hình ảnh tân kỳ xuất lộ từ tiềm thức. Chủ nghĩa siêu
thực được chủ soái của phong trào là nhà thơ Pháp André Breton (1896-1966) định
nghĩa trong Tuyên ngôn chủ nghĩa siêu
thực lần thứ nhất là: “Cơ chế tự động của tâm lý thuần khiết dùng để diễn
đạt hoạt động đích thực của tư tưởng hoặc bằng ngôn từ, hoặc bằng chữ viết,
hoặc bằng các cách thức khác. Được tư tưởng xui khiến, vắng mặt mọi sự kiểm
soát của lý trí, ngoài mọi thành kiến mỹ học và đạo đức”. Vốn là nhà tâm lý
chuyên nghiệp, Tomas Tranströmer thừa nhận ảnh hưởng từ tiềm thức đến công việc
sáng tạo của mình: “Mọi thứ đều đến từ bên trong, từ tiềm thức. Đó là cái nguồn
của mọi thứ. Tôi có nhiều phương tiện để đáp ứng với những gì tôi nhận được từ
nội tâm, nhưng tôi không bao giờ bảo chính mình phải viết về một điều gì đó”.
Đọc những câu thơ như: Tảng nước đá treo ở bờ mái nhà/ Băng giá: kiến trúc
gôtic bị đảo ngược/Những con vật trìu tượng, những vú bằng kính. (bài thơ Sáu
mùa đông, N.X.S dịch), dễ nhận ra một lối viết gần với lối viết tự động
(écriture automatique) với sự liên kết tự do các ý tưởng, sử dụng các hình ảnh
như là biểu tượng theo lối tư duy tiền logic. Song, dù có tân kỳ bao nhiêu, ông
vẫn giữ được sự trong sáng, độ sâu sắc ba chiều hiếm có của hình ảnh rút ra từ
cách nhìn sâu vào đối tượng. Và để diễn đạt hình ảnh từ trong tiềm thức khá khó
khăn như lời ông tự nghiệm: “Có khi hình ảnh hiện rõ một điểm cố định với những
con chữ chính xác để diễn tả. Nhưng đôi khi, nó đến như một hình ảnh mà ngôn từ
bất lực và tôi phải vất vả để làm chữ”.
Cũng chính ở giai đoạn này, thơ của Tomas
Tranströmer bắt đầu hình thành tư tưởng rõ rệt. Có thể xem, Tomas Tranströmer
là nhà thơ của những thao thức siêu hình, tương tự như suy nghĩ của nhà triết
học người Đức Immanuel Kant (1724-1804): “Hai điều tràn ngập tâm tư với sự
ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ đến, đó là: Bầu
trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật luân lý ở trong tôi” (Phê phán lý tính
thực hành, NXB Tri thức, 2007). Đối với ông, con người là bí ẩn, tự nhiên là
một dạng câu đố cần giải mã, cái thực và hiện tồn là những điều huyền bí. Như
vậy, thơ của ông để chiêm nghiệm những vấn đề bản thể của con người và thiên
nhiên.
Theo thông lệ trao giải Nobel, tháng 12
tới Tomas Tranströmer sẽ đọc một diễn từ, nhưng với di chứng của đột qụy từ năm
1990 ông liệt nửa người nên không thể tự mình nói lên suy nghĩ về văn
chương và cuộc đời. Có thể, nhà thơ thuở thiếu thời ước mơ làm một nhạc sĩ sẽ
chơi dương cầm bằng tay trái, thay vì đọc một diễn từ. Và lúc đó, ông sẽ lại
đắm mình vào ký ức tuổi hai mươi-cái tuổi khởi đầu của 17 bài thơ êm dịu như
những bản đàn!
HÀM ĐAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét