Hiển thị các bài đăng có nhãn novel. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn novel. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

THẾ GIỚI HOÀI NIỆM CỦA MARGUERITE DURAS

Nữ văn sĩ Pháp Marguerite Duras (Ma-ga-rít Đuy-rát, 1914-1996) là một trong số những nhà văn có tác phẩm được dịch sang tiếng Việt nhiều nhất. Sự ưu ái này chắc chắn không phải do tác phẩm của M. Đuy-rát dễ đọc như các tác phẩm ăn khách của “bà hoàng truyện trinh thám” A-gát Crít-xti hay nhà văn chuyên viết truyện diễm tình Quỳnh Dao. Phải chăng sự gần gũi với Việt Nam từ cuộc đời lẫn trong những trang sách đã khởi sự niềm hứng thú cho nhiều dịch giả chuyển ngữ tác phẩm của M. Đuy-rát sống lại trên quê hương thứ hai của bà? Việt Nam hay cụ thể là vùng đất Nam Bộ được xem là khởi nguồn thế giới văn chương đầy hoài niệm kéo dài hơn nửa thế kỷ với gần 50 tác phẩm của M. Đuy-rát. Thậm chí, giới nghiên cứu còn chứng minh sự lai chủng ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Pháp trong văn bản của M. Đuy-rát…

     M. Đuy-rát sinh ngày 4-4-1914 tại Gia Định (TP Hồ Chí Minh ngày nay) khi bố mẹ bà đang làm trong ngành giáo dục Pháp ở Nam Kỳ. Cuộc sống thời thơ ấu của M. Đuy-rát ở Việt Nam không mấy hạnh phúc khi cha bà mất sớm, kinh tế gia đình chỉ trông vào đồng lương của người mẹ là hiệu trưởng một trường tiểu học ở Sa Đéc (Đồng Tháp). Điều không may là số tiền dành dụm của gia đình lại mua phải một đồn điền hằng năm bị nước biển tràn lên phá hết hoa màu khiến cuộc sống gia đình càng thêm khốn khó. Sự bế tắc trong cuộc sống ở Đông Dương đã được M. Đuy-rát viết lại gần như là tự thuật qua tiểu thuyết “Đập ngăn Thái Bình Dương” (Lê Hồng Sâm dịch, NXB Văn học, 1997) in năm 1950. Đây là tác phẩm thứ ba của M. Đuy-rát nhưng là tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang trên văn đàn Pháp, báo hiệu một tài năng sẽ còn tiến triển không ngừng. Trong tiểu thuyết “Đập ngăn Thái Bình Dương”, M. Đuy-rát đã tài tình dẫn dắt một cốt truyện đơn điệu trở nên vô cùng hấp dẫn bằng lối viết cổ điển, cùng với sự phân tích tâm lý nhân vật đa chiều.

     Lối viết tiểu thuyết cổ điển với nhân vật có tính cách rõ ràng trở lại ở cuối sự nghiệp của M. Đuy-rát với tiểu thuyết “Người tình” (Đình Kinh Hiệt dịch, NXB Trẻ, 1989) in năm 1984. Cuốn sách trở thành sách bán chạy toàn cầu và nhận giải Goncourt-giải thưởng văn chương cao quý nhất nước Pháp. Qua tiểu thuyết “Người tình”, M. Đuy-ra đã bất tử hóa mối tình ở tuổi 15 mãnh liệt, dị thường của bà với một người Hoa giàu có tên là Huỳnh Thủy Lê. Sự khác biệt về chủng tộc và giai cấp đã ngăn trở mối tình, M. Đuy-rát trở về Pháp sau khi tốt nghiệp tú tài; và từ đây, Đông Dương và tình yêu trở thành nỗi hoài niệm khôn nguôi trong tâm hồn M. Đuy-rát. Bây giờ ở Thị xã Sa Đéc, nhà cổ Huỳnh Thủy Lê vẫn còn đó, trở thành nới ghé thăm của nhiều du khách để hiểu thêm về một mối tình đã thành huyền thoại.

HÀM ĐAN

ĐƯA LỊCH SỬ ĐẾN GẦN VỚI THỰC TẠI

     Nhà văn I-ta-li-a I-ta-lô Ca-vi-nô (Italo Calvino, 1923-1985) được xem là một trong những nhà văn lớn nhất của thế giới nửa cuối thế kỷ XX, đồng thời, ông còn được xem là nhà văn hậu hiện đại tiêu biểu nhất. Cách đây vài chục năm khi các nhà triết học vẫn đang hệ thống hóa lý thuyết chủ nghĩa hậu hiện đại thì nhiều nghệ sĩ trong đó có I. Ca-vi-nô đã có những tác phẩm đi trước, cụ thể hóa các luận điểm lý thuyết.

     Tác phẩm đậm tính hậu hiện đại, được giới “siêu độc giả” ca ngợi nhất của I. Ca-vi-nô là tiểu thuyết “Nếu một đêm đông có người lữ khách” xuất bản năm 1979 (Trần Tiễn Cao Đăng dịch, NXB Văn học và Nhã Nam, 2011). Nhưng tác phẩm này không phải dành cho tất cả mọi người vì sự phức tạp trong cấu trúc tác phẩm. Độc giả rộng rãi yêu mến I. Ca-vi-nô thông qua bộ ba tiểu thuyết mang tên “Tổ tiên của chúng ta” gồm các tác phẩm “Tử tước chẻ đôi” (1952), “Nam tước trên cây” (1957) và “Hiệp sĩ không hiện hữu” (1959) đều do Vũ Ngọc Thăng dịch, được NXB Văn học và Nhã Nam phát hành từ năm 2009 đến năm 2012.

     I. Ca-vi-nô đưa người đọc về thế giới xa xưa của các hiệp sĩ và quý tộc thời Trung Cổ ở Âu châu với những câu chuyện kỳ thú. “Tử tước chẻ đôi” kể về tử tước Mê-đác-đô trúng đạn đại bác, thân thể bị xẻ làm đôi thiện và ác; nhờ tình yêu với cô thôn nữ Pa-mê-la mà hai nửa thân thể lại nhập thành một. “Nam tước trên cây” là câu chuyện về nam tước Cô-xi-mô suốt đời sống trên cây nhưng vẫn tham gia công việc thế sự; cuối cùng thì bay lên trời bằng một khinh khí cầu. “Hiệp sĩ không hiện hữu” là câu chuyện về hiệp sĩ A-gi-lu-phu không hề có hình hài nhưng vẫn tham gia chiến đấu để bảo toàn tước vị hiệp sĩ của mình cho đến khi siêu thoát.

     Nội dung các cuốn tiểu thuyết có thể được tóm tắt ngắn gọn là vì I. Ca-vi-nô đưa ra những cốt truyện mạch lạc, hoàn toàn đọc một mạch từ đầu đến cuối. Nhưng khác với các tiểu thuyết hiệp sĩ trước đó, I. Ca-vi-nô không sa vào các chi tiết sinh hoạt thời kỳ này hoặc không chêm vào các đoạn ngoại đề làm cốt truyện thêm rắc rối. Phương châm của I. Ca-vi-nô là kéo căng cốt truyện, luôn luôn gây dựng sự kịch tính để tạo ra sự giải trí mà I. Ca-vi-nô muốn dành cho chính mình và tặng người đọc.

     Mặt khác, trong mỗi cuốn tiểu thuyết, I. Ca-vi-nô đều đưa ra một luận đề triết học hiểm hóc. “Nam tước trên cây” là câu chuyện về sự nhẹ nhõm mà cuộc đời con người có thể đạt đến. “Tử tước chẻ đôi” là luận đề về sự nhất thể hóa tinh thần con người. Và cuối cùng, “Hiệp sĩ không hiện hữu” là một sự luận giải về vấn đề hiện hữu và hiện diện của con người. Khác với những nhà văn hiện sinh Pháp như: Giăng Pôn Xác (1905-1980), An-be Ca-muy (1913-1960)... viết tiểu thuyết thực chất là để minh họa cho các luận điểm của triết học hiện sinh; I. Ca-vi-no hòa tan các luận đề vào trong câu chuyện đến mức không thể tách rời. Chưa kể, trong “Hiệp sĩ không hiện hữu” còn sử dụng cấu trúc “truyện lồng trong truyện”, thực chất là để suy tư về công việc viết tiểu thuyết. Có thể nói, tài năng tiểu thuyết của I. Ca-vi-no đạt đến độ chín thông qua bộ ba tiểu thuyết, khi kết hợp tài tình giữa khoa học với nghệ thuật.

     Trong tác phẩm nổi tiếng của I. Ca-vi-nô được in sau khi qua đời là “Những bài giảng Mỹ-Sáu điểm ghi nhớ cho thiên niên kỷ tới” (Cao Việt Dũng dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài số 1 và 4-2007). Từ kinh nghiệm sáng tác bản thân, I. Ca-vi-nô đã khái quát những đặc điểm văn chương hậu hiện đại dành cho thiên niên kỷ tới là: “Nhẹ”, “nhanh”, “chuẩn”, “rõ”, “nhiều” và “nhất quán”. Nhờ việc tìm tòi lối viết thâu nạp các đặc tính văn chương thời đại mới mà I. Ca-vi-nô đã diễn giải lịch sử theo cách độc đáo. Các hiệp sĩ và quý tộc hiện lên với những tính cách phi thời gian, với những suy tư phổ quát mang tính người nói chung; tất cả rất trung tính để phù hợp với các luận đề cần giải quyết. Ví dụ như, hiệp sĩ A-gi-lu-phu trong “Hiệp sĩ không hiện hữu” không hề có hình hài mà giống như người vô hình mặc áo giáp nhưng nhờ tính trung thực, thẳng thắn; chàng vẫn hiện diện nổi bật trong đội quân của Hoàng đế Sác-lơ-ma-nhơ. Chàng A-gi-lu-phu là sự đối lập với các hiệp sĩ khác có hình hài bằng xương bằng thịt nhưng chẳng hề hiện diện ngoài những lời nói khoác lác. I. Ca-vi-nô để lại bài học là con người muốn chứng minh sự tồn tại của mình phải thông qua những việc làm có ích cho mọi người. Sự tài tình của I. Ca-vi-nô đã khiến những bài học đạo đức từ câu chuyện lịch sử xa xưa và phi thực lại rất gần với những câu chuyện cuộc sống hiện đại-vì con người hiện đại là con người làm nên chính bản thân mình thông qua hành động cá nhân.

     I. Ca-vi-nô ngay từ khi còn sống đã được xem là một “ảo thuật gia” tự sự khi mỗi một tiểu thuyết của ông đều chứa đựng đủ mọi loại cách kể chuyện: Cổ tích, hiện thực, kỳ ảo, dòng ý thức, giễu nhại...; tất cả đều nhuần nhuyễn, không vênh nhau. Như vậy, tiểu thuyết của I. Ca-vi-nô, đặc biệt là bộ ba “Tổ tiên của chúng ta” đã mở ra nhiều con đường sáng tạo mới cho văn học khi biết kết hợp các yếu tố rời rạc thành một chỉnh thể.

HÀM ĐAN

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 2012: LỰA CHỌN AN TOÀN

Như tin đã đưa, Hội đồng Chung khảo Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam đã công bố các tác phẩm văn học đoạt giải năm 2012. Ngay sau đó, hai nhà văn là Y Ban và Phạm Ngọc Cảnh Nam đã từ chối bằng khen ở hạng mục văn xuôi. Gạt bỏ đi những điều tiếng vốn chẳng lạ của Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, vậy chất lượng các tác phẩm được vinh danh năm nay có thực sự xứng đáng?

1. Nếu cần một nhận xét chung, có thể thấy rằng các tác phẩm đoạt giải thưởng năm nay là hoàn toàn xứng đáng, đều là những tác phẩm đáng chú ý nhất trong năm qua.

Ở hạng mục văn xuôi, tập truyện ngắn “Thành phố đi vắng” (NXB Trẻ) đánh dấu sự trở lại của nữ nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ; và sự trở lại này thật sự ấn tượng. Đây là tập truyện ngắn mẫu mực cho nghệ thuật xây dựng truyện ngắn. Bên cạnh những truyện ngắn theo hình thức cổ điển là phép cộng của một chuỗi tình tiết na ná tiểu thuyết, thể hiện tham vọng của nhà văn muốn thâu tóm càng nhiều chất liệu hiện thực, càng muốn đưa ra nhiều tầng nghĩa trong một dung lượng hạn chế; Nguyễn Thị Thu Huệ còn viết những ngắn hiện đại không hề có biến cố nhưng sức gợi và độ mở là đáng kể. Kiểu truyện ngắn này không nhiều nhà văn ở Việt nam có thể viết thuần thục vì đòi sự tập trung, dồn nén, soi chiếu của các tình tiết trong truyện ngắn.

Cũng ấn tượng với sự mới mẻ là tiểu thuyết “Trò chơi hủy diệt cảm xúc” (NXB Trẻ) của nhà văn Y Ban. Ai cũng biết, tiểu thuyết muốn “sống” được cần phải dựa trên một hình thức tương thích với chất liệu mà tiểu thuyết sử dụng. Về cơ bản, hình thức thư từ được Y Ban chọn là phù hợp nhưng giọng điệu và các tình tiết vẫn chưa thực sự mới hơn so với các tập truyện ngắn “I am đàn bà” (NXB Công an nhân dân, 2006). Nhưng suy cho cùng, “Trò chơi hủy diệt cảm xúc” là bước tiến mới của riêng Y Ban trong quá trình thể nghiệm tiểu thuyết.

Giải thương năm nay, thơ “bội thu” khi có tới ba tác phẩm được trao giải và hai tập thơ được bằng khen. Về cơ bản, các tập thơ này đều viết theo thi pháp cổ điển, không có những các tân về hình thức như các tập thơ đình đám vài năm trước như: “Lô lô” (NXB Hội Nhà văn, 2005) của Ly Hoàng Ly hay “Chữ cái” (NXB Phụ nữ, 2007 ) của Từ Huy... Song, các tập thơ đều ẩn chứa chất suy tư, triết luận như: “Ở giữa sấm chớp và mưa giăng/ tôi nghe thì thầm/ tiếng giữa chuyển dạ và sinh nở” (Bài thơ “Tiếng thì thầm” trong tập “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng), “Sự nhạt thường hay có thú vui hàng xén/ bán lẻ một cái nhìn/ mặc cả một ngày mai ảo ảnh” (Bài thơ “Tốc ký về sự nhạt” trong tập “Màu tự do của đất” của Trần Quang Quý)...

Đáng chú ý là trường ca “Trường ca chân đất” (NXB Hội Nhà văn) của nhà thơ Thanh Thảo. Ông vẫn chứng tỏ tài năng của mình ở thể loại sở trường bắt đầu từ trường ca “Những người đi tới biển” (NXB Quân đội nhân dân, 1977). “Trường ca chân đất” không chỉ có cấu trúc chặt chẽ mà điểm ấn tượng của trường ca này là tính tư tưởng sâu sắc khi viết nhân dân nói chung-đó là những con người vô danh làm nên lịch sử và giữ gìn hình hài Tổ quốc vẹn nguyên. Bên cạnh những câu thơ cả giọng, vẫn xuất hiện những câu thơ trữ tình đáng nhớ: “Bùn ruộng là tôi/ thuở mẹ cho con bú/ bầu vú thoảng mùi gốc rạ”.

Nếu giải thưởng hàng năm có nhiệm vụ vinh danh các tác phẩm đáng chú ý trong một năm thì Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2012 đã hoàn thành sứ mệnh của mình, chí ít ở hạng mục văn xuôi và thơ.

2. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2012 còn đôi chút bất thường và gây băn khoan cho dư luận ở việc không trao bất cứ giải thưởng hay bằng khen nào cho hạng mục dịch thuật.

Chưa bao giờ như bây giờ, dịch thuật văn học lại bùng nổ khi các đầu sách dịch áp đảo trên thị trường, với sự góp mặt của các tác giả kinh điển cho đến các nhà văn ít tên tuổi. Lẽ ra, cái khó của giải thưởng là băn khoăn lựa chọn một vài giữa vô vàn dịch phẩm để trao giải chứ không phải bỏ trống! Có thể đơn cử hai ứng cử viên nặng ký cho hạng mục dịch thuật để trao giải là tiểu thuyết “Hiệp sĩ không hiện hữu” (NXB Văn học và Nhã Nam) của nhà văn I-ta-li-a I-ta-lô Ca-vi-nô do Vũ Ngọc Thăng dịch và bộ tiểu thuyết “Nông dân” (NXB Lao động và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây) của nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel 1924 Va-đi-xlát Rây-môn do Nguyễn Văn Thái dịch. Hai tác phẩm được dịch đều là những kiệt tác của văn chương thế giới và đều được viết bằng những “ngoại ngữ hiếm” mà ở Việt Nam rất ít người có thể dịch được. Thêm vào đó, cả hai dịch giả đều nhiều năm sống ở bản xứ vì thế họ không chỉ giỏi ngoại ngữ mà còn am tường văn hóa nước sở tại nên dịch sẽ có lợi thế hơn các dịch giả khác.

Còn nhớ vào ngày 10-8-2012, Hội đồng văn học dịch thuộc Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức Hội thảo “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của văn học dịch hiện nay” để bàn về những vấn đề “bếp núc” dịch thuật đang “nóng” ở thời điểm đó và định hướng những việc phải làm để dịch văn học phát triển. Thôi thì những việc vĩ mô cần kinh phí và thời gian để thực hiện, nhưng những việc nhỏ ở trong tầm tay của Hội như việc trao giải cho dịch thuật là cần thiết, tránh tình trạng “nói không đi đôi với làm”. Ai cũng biết không dịch giả nào sống bằng nghề mà dịch là một thú vui. Việc trao giải thưởng cho các tác phẩm dịch đích đáng không chỉ nâng cao vị thế của Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, mà còn động viên công việc thầm lặng của các dịch giả.

Riêng về hạng mục lý luận-phê bình văn học việc trao giải cho tập tiểu luận phê bình “Đa cực và điểm đến” (NXB Hội Nhà văn) của nhà văn Văn Chinh, chứng tỏ việc hướng đến vinh danh một tác phẩm khá hiền lành. Đành rằng, cuốn sách không hề tồi nếu xét theo tiêu chí là cuốn sách phê bình văn học theo phương pháp phê bình ấn tượng của nghệ sĩ. Trong vai trò người trong nghề và quen biết nhiều nhà văn, Văn Chinh không chỉ giỏi ở việc nắm bắt các chi tiết trong đời sống và viết lách của các nhà văn mà ông còn có khả năng nhận xét tác phẩm sắc sảo, kể cả những tác phẩm viết theo khuynh hướng hậu hiện đại. Tuy nhiên, lối phê bình của Văn Chinh không phải quá hiếm người đã làm được như Trần Đăng Khoa trong “Chân dung và đối thoại” (NXB Thanh niên, 1998) và trong tương lai chắc chắn sẽ có nhà văn khác thực hiện cuốn sách tương tự như “Đa cực và điểm đến”. Lẽ ra trong bối cảnh phê bình văn học Việt Nam cần tránh lối phê bình cảm tính làm nhiễu loạn các giá trị văn học, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cần hướng đến việc vinh danh những tác phẩm lý luận phê bình vận dụng các phương pháp nghiên cứu để lý giải tác phẩm theo chiều sâu, một cách thuyết phục.

Trong nhiều tiêu chí của một giải thưởng văn học thường có việc trao giải cho những tác phẩm có dấu hiệu đổi mới. Nhiều năm qua, Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam về cơ bản đều đi theo hướng lựa chọn an toàn khi trao giải cho những tác phẩm có lối viết cũ khiến tầm ảnh hưởng của giải thưởng không lan rộng. Trao giải cho những tác phẩm cách tân là điều người đọc chờ đợi ở sự mới mẻ của Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam những lần sau.


BOX:

Kết quả Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2012: Ở thể loại văn xuôi, giải thưởng duy nhất trao cho tập truyện ngắn “Thành phố đi vắng” của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ; trao bằng khen cho tiểu thuyết “Trò chơi hủy diệt cảm xúc” của nhà văn Y Ban và tiểu thuyết "Thế kỷ bị mất” của nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam. Ba tác phẩm thơ đoạt giải thưởng là “Trường ca chân đất” của nhà thơ Thanh Thảo, “Màu tự do của đất” của nhà thơ Trần Quang Quý và “Giờ thứ 25” của nhà thơ Phạm Đương; 2 tập thơ được bằng khen là “Hoa hoàng đàn nở muộn” của nhà thơ Khuất Bình Nguyên và “Chất vấn thói quen” của nhà thơ Phan Hoàng. Ở lĩnh vực lý luận-phê bình văn học, giải thưởng thuộc về tác phẩm “Đa cực và điểm đến” của nhà văn Văn Chinh. Năm nay không trao giải thưởng cho tác phẩm dịch nào. Lễ trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2012 và kết nạp hội viên năm 2012 sẽ tổ chức vào ngày 29-1 tại Bảo tàng Hội Nhà văn Việt Nam (275 Âu Cơ, Hà Nội).

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

MIKHAIL BAKHTIN, NHÀ LÝ LUẬN TIỂU THUYẾT KIỆT XUẤT



     Nhắc đến Mi-khai-in Ba-khơ-tin (Mikhail Bakhtin, 1895-1975) giống như nhắc về một nhân vật huyền thoại nhiều hơn là một học giả có thật. Đến ngay những chuyên gia về M. Ba-khơ-tin cũng không thể hiểu nổi làm thế nào mà người đàn ông suốt đời đau yếu, tật nguyền, chỉ học dự thính đại học, nhiều năm sống ở vùng quê hẻo lánh lại gây dựng được sự nghiệp học thuật vĩ đại. Ngay từ khi còn sống, M. Ba-khơ-tin đã được liệt vào hàng những nhà khoa học nhân văn hàng đầu không chỉ của nước Nga mà cả trên thế giới.

     Sự nghiệp M. Ba-khơ-tin to lớn và đa dạng: Triết học, văn hóa học, mỹ học, ngữ văn học…; cho nên, người ta gọi ông là nhà bác học kiểu cổ điển cuối cùng của nước Nga. Khoảng chục năm trước khi qua đời, tên tuổi của M. Ba-khơ-tin mới được biết đến rộng rãi ở Nga và phương Tây. Đến nay, giới nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm hiểu di sản của M. Ba-khơ-tin và nhiều người kinh ngạc khi trong các công trình của M. Ba-khơ-tin có tính dự báo về một số đặc trưng của thời hậu hiện đại. Song lĩnh vực được chú ýsớm nhất và nổi tiếng nhất của M. Ba-khơ-tin vẫn là lý thuyết về tiểu thuyết.

     Trong công trình nổi tiếng “Những vấn đề thi pháp Đốt-tôi-ép-xki” xuất bản năm 1929 (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, NXB Giáo dục, 1993), M. Ba-khơ-tin đã nêu ra phát hiện về tính đa âm (polyphonique) xuất hiện lần đầu tiên trong các tiểu thuyết của Đốt-tôi-ép-xki. Đa âm là thuật ngữ M. Ba-khơ-tin mượn từ âm nhạc để chỉ hiện tượng các bè đều bình đẳng, khác với đơn âm (monologique) có phân biệt bè chính và bè phụ. M. Ba-khơ-tin chỉ rõ trong tiểu thuyết của Đốt-tôi-ép-xki không chỉ có tiếng nói và
ý thức của tác giả mà còn có nhiều giọng điệu và suy nghĩ của nhân vật bình đẳng với tác giả, lẫn vào nhau như đang cãi vã lẫn nhau. M. Ba-khơ-tin nhận xét: “Đốt-tôi-ép-xki là người sáng tạo ra tiểu thuyết đa âm… Trong tác phẩm của ông xuất hiện loại nhân vật mà tiếng nói của nó được xây dựng giống như tiếng nói của tác giả trong tiểu thuyết thông thường”. Như vậy, trong tiểu thuyết của Đốt-tôi-ép-xki, phát ngôn của nhân vật do nhà văn viết ra nhưng không biểu hiện ý thức của tác giả thay vào đó là của nhân vật.

     Lý thuyết về giọng điệu tiểu thuyết của M. Ba-khơ-tin vốn được triển khai từ nguyên tắc đối thoại đặc thù của con người. M. Ba-khơ-tin chỉ rõ Đốt-xtôi-ép-xki đã xây dựng tiểu thuyết của ông như một cuộc đối thoại lớn, dệt nên từ những cuộc đối thoại nhỏ gọi là “vi thoại” (microdialogue)-tương ứng với mỗi chữ, mỗi lời. Tinh thần đối thoại ngấm vào từng chữ, từng cử chỉ của nhân vật để diễn tả những mâu thuẫn nội tâm của nhân vật như những đoạn độc thoại của Ra-cô-ni-cốp trong tiểu thuyết “Tội ác và trừng phạt” gợi lại lời nói của những nhân vật khác xung quanh anh ta.

     M. Ba-khơ-tin cũng đã tìm ra sự khác biệt tiểu thuyết đa âm và tiểu thuyết đơn âm. Ba-khơ-tin xem hiện tượng đơn âm là tất cả những đối thoại phát xuất từ tác giả, được tác giả áp đặt suy nghĩ đối với nhân vật của mình. Trong tiểu thuyết đơn âm các nhân vật có nói chuyện với nhau nhưng không đối thoại với nhau do nội tâm nhân vật và tác giả khép kín, không hề có mối liên hệ
ý thức. M. Ba-khơ-tin kết luận rằng: Hồi ký, tự thuật, truyện lịch sử, truyện phong tục, anh hùng ca và thơ là những thể loại đơn âm.

     Qua l
‎‎ý thuyết về giọng điệu tiểu thuyết có thể xem M. Ba-khơ-tin là người tiếp tục phát triển nghiên cứu văn học thông qua hình thức. M. Ba-khơ-tin không đồng ý với các nhà hình thức Nga xem hình thức chỉ là tập hợp các thủ pháp nghệ thuật thuần túy mà thực ra phải là hình thức của cái nhìn, thể hiện thế giới quan của chủ thể.

     Trong một số công trình khác được in chung trong cuốn “L‎‎ý luận và thi pháp tiểu thuyết” (Phạm Vĩnh Cư dịch, Trường Đại học Viết văn Nguyễn Du xuất bản, 1992), M. Ba-khơ-tin còn nỗ lực xác định những vấn đề quan trọng khác của tiểu thuyết như: Xác định tiểu thuyết là thể loại duy nhất đang chuyển biến và còn chưa định hình; tiểu thuyết ôm chứa mọi thể loại khác và “tiểu thuyết hóa” chúng; tiểu thuyết là sự pha tạp nhiều loại phong cách (kể truyện trực tiếp, lối kể truyện truyền khẩu, lối trần thuật, lời nói của các nhân vật…) được trộn lẫn với nhau thành một hệ thống văn chương khống chế toàn bộ tác phẩm; những biến cố chính chứa đựng trong tác phẩm tạo ra nút thắt, mở trong tiểu thuyết nằm trong “thời-không-gian”…

     Theo nhà phê bình văn học Pháp gốc Bun-ga-ri T. Tô-đô-rốp thì M. Ba-khơ-tin có tham vọng phát triển các suy nghĩ của ông thành triết thuyết, nhưng do nhiều lý
do ông phải “đi đường vòng” thể hiện các tư tưởng của mình thông qua việc nghiên cứu văn học, đặc biệt là tiểu thuyết. Với một bộ óc thiên tài như của M. Ba-khơ-tin, sản phẩm phụ hóa lại thành một sản phẩm chính, giúp tên tuổi ông trở nên bất tử. Ngày nay, những lý luận tiểu thuyết của M. Ba-khơ-tin đã trở nên quen thuộc song không vì thế mà giảm đi khả năng ứng dụng trong việc nghiên cứu tiểu thuyết.

HÀM ĐAN

CẦN TIẾP TỤC NUỐI DƯỠNG CẢM HỨNG VIẾT VỀ CHIẾN TRANH




Phóng viên (PV): Thưa PGS, TS Nguyễn Đăng Điệp, ông có thể nêu đặc điểm chính của văn học viết về chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại?
PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp: Trong thế kỷ XX, hiếm có dân tộc nào trải qua hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ khốc liệt như dân tộc Việt Nam, và cuối cùng chúng ta là người chiến thắng. Bởi thế, đề tài chiến tranh là đề tài lớn trong văn học Việt Nam, ngay cả khi đất nước đã hòa bình thì chiến tranh vẫn là một đề tài ám ảnh.

Vấn đề đặt ra là thời gian qua các nhà văn đã viết về chiến tranh như thế nào? Theo tôi có hai hướng nổi bật: Thứ nhất, viết về chiến tranh như thực trạng chiến tranh đã diễn ra. Đây là lối viết nhìn chiến tranh ở cự ly gần. Lối viết này dễ gây được hiệu quả xã hội tức thì vì mục đích của nó là biểu dương kịp thời tinh thần dũng cảm, sự quật cường của dân tộc. Giá trị chủ yếu của nó nằm ở tính nóng hổi của các sự kiện được ghi lại. Tuy nhiên, khi chiến tranh đã lùi xa, sức nóng của các sự kiện đã giảm xuống, tâm lý thị hiếu người đọc thay đổi, những tác phẩm được viết theo yêu cầu kịp thời khó lôi cuốn được độc giả vì phần lớn các tác phẩm này hoặc là ghi chép hoặc mang màu sắc truyện ký.

Lối viết thứ hai là sự gián cách với chiến tranh bằng một độ lùi cần thiết. Lối viết này thường chậm hơn so với lối viết thứ nhất, nhưng ưu thế là cái nhìn và cảm hứng lý giải về chiến tranh sâu hơn, bình tĩnh hơn. Chiến tranh là một phần của lịch sử, hơn thế, bản thân nó cũng là một lịch sử, mà diễn giải về lịch sử thì có thể xuất phát từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Trong lối viết thứ hai, những suy tư cá nhân về chiến tranh, về số phận con người và dân tộc thường nổi bật hơn. Tôi nghĩ rằng lối viết này phù hợp hơn với tư duy nghệ thuật hiện đại.

Những năm gần đây, giới sáng tác và độc giả quan tâm đến đề tài lịch sử. Có loại lịch sử xa (cách chúng ta hàng trăm thậm chí hàng ngàn năm), có loại lịch sử gần (cách thời hiện tại khoảng dăm chục năm). Cái khó của đề tài lịch sử gần là chưa có độ lùi thời gian để chúng ta nhìn về chiến tranh ở cả hai mặt được và mất. Và diễn giải chiến tranh của nhà văn, nếu trái chiều, trái kênh, rất dễ bị phản ứng của người đọc. Những tôi nghĩ, trong khoảng ba mươi năm qua, văn học về chiến tranh đã có nhiều tác phẩm hay của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Chu Lai, Bảo Ninh, Trung Trung Đỉnh, Thái Bá Lợi… Về thơ có thể kể đến thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Trần Anh Thái... Họ là những người lính viết về trải nghiệm của mình, nỗi đau và sự hy sinh của thế hệ mình và trong số phận thế hệ ấy có số phận dân tộc.Điều đáng chú ý là sau 1975, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, tuy với độ lùi thời gian chưa nhiều, nhưng nhiều nhà văn đã biết nhìn chiến tranh ở cả mặt phải lẫn mặt trái của tấm huy chương. Nghĩa là giờ đây, một giọt nước mắt, một nỗi đau, một ly biệt… cũng được hiểu như là một nhân tố góp phần tạo nên chiến thắng của dân tộc. Tư duy nghệ thuật mới tạo nên độ mở trong cách viết của nhà văn. Trước đây, các nhà văn quan tâm đến lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp thì sau này họ nhìn chiến tranh bằng cái nhìn nhân bản. Điều đó thể hiện ở việc các nhà văn quan tâm nhiều hơn đến số phận con người, qua đó nhìn thấy số phận lịch sử và dân tộc, thay vì số phận cá nhân chỉ là minh họa cho số phận dân tộc như trước đây. Vì thế, chiều sâu nội tâm và những chấn thương tinh thần của nhân vật được miêu tả kỹ lưỡng hơn. Tôi muốn đề cập đến một tác phẩm gây nhiều tranh cãi là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Có ý kiến cho rằng, Bảo Ninh viết Nỗi buồn chiến tranh để giải thiêng lịch sử, hạ thấp ý nghĩa chiến thắng.... Tôi không nghĩ như vậy. Toàn bộ cuốn tiểu thuyết gắn với hồi ức đứt nối của nhân vật Kiên. Chính trong sâu thẳm những dằn vặt của Kiên, chiến tranh hiện lên chân thực hơn bao giờ hết, người đọc nhận ra để có chiến thắng vĩ đại chúng ta đã trải qua biết bao đau đớn. Đọc tác phẩm này cần đến một cái nhìn chia sẻ để thấu hiểu những âu lo, khắc khoải phận người.

Đúng là trong thời đại chúng ta đang sống, những người đam mê viết về chiến tranh không còn nhiều. Nhà văn chủ yếu viết về vấn đề đô thị hóa, những thăng trầm đời sống thường nhật, thậm chí nhiều người hướng tới các đề tài “hot” như: sex, đồng tính… Theo tôi đó là chuyện bình thường. Nhưng tôi nghĩ, viết về chiến tranh vẫn là một yêu cầu riết róng đối với nhà văn bởi hiểu chiến tranh, hiểu quá khứ dân tộc là cách chúng ta bước đến tương lai một cách chắc chắn hơn.

PV: Theo phân tích của ông, thời đại đã khác phải chăng cần một cách viết khác về chiến tranh?

PGS, TS Nguyễn Đăng Điệp: Đúng thế. Thời nào có mối quan tâm của thời ấy. Chiến tranh dù đã đi qua nhưng không có nghĩa là tất cả đã khép lại. Thực ra, nó vẫn can dự đến đời sống chúng ta, tuy không trực diện và trực tiếp. Tôi nghĩ mỗi nhà văn sẽ có cách tiếp cận về chiến tranh theo suy nghĩ riêng của họ. Nhưng có hai điều đáng lưu ý trong cách viết về chiến tranh từ điểm nhìn hôm nay. Thứ nhất, diễn giải mới về chiến tranh không đồng nghĩa với việc xuyên tạc lịch sử mà đó phải là những hình thức mới mẻ khiến cho lịch sử hiện lên chân thực hơn. Xin đừng hiểu chân thực là ghi chép, nệ thực mà đó là nỗ lực miêu tả những mặt khuất kín, những hàm nghĩa chìm ẩn theo tinh thần của Xê-da (Caesar) phải trả về cho Xê-da. Tất nhiên, từ cuộc sống bình thường hôm nay viết về chiến tranh như một bất thường của lịch sử bao giờ cũng khó khăn. Nó đòi hỏi nhà văn phải nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử.

Thứ hai, kỹ thuật tự sự ngày nay có nhiều thay đổi lớn. Viết về chiến tranh không đơn giản là kể lại câu chuyện tuyến tính có đầu có cuối, mà phải biết sử dụng, sáng tạo những phương thức biểu đạt mới để thu hút người đọc trở lại một đề tài cũ mà thực ra chưa bao giờ cũ. Tất nhiên, nói nhà văn cần nuôi dưỡng cảm xúc viết về chiến tranh không có nghĩa là cổ súy cho chiến tranh mà thông qua đó, nhà văn khơi gợi niềm tự hào dân tộc, giúp người đọc hiểu rằng cuộc sống hôm nay được đánh đổi bằng hạnh phúc của bao thế hệ hôm qua. Để tái hiện chiến tranh một cách sinh động, tôi nghĩ một mặt nhà văn cần tiếp tục nuôi dưỡng cảm hứng viết chiến tranh; mặt khác, phải dày công nghiên cứu và có trí tưởng tượng phong phú, biết giải phóng trí tưởng tượng khỏi những sự kiện vụn vặt bằng cái nhìn nghệ thuật độc đáo, mới lạ.

PV: Theo ông, để viết về chiến tranh trong hoàn cảnh mới các nhà văn cần chuẩn bị những gì?

PGS, TS Nguyễn Đăng Điệp: Tôi đã lý giải phần nào câu hỏi này ở trên. Tôi muốn nhắc đến một nhà văn tâm huyết với lịch sử là Nguyễn Xuân Khánh. Nếu Hồ Quý LyMẫu Thượng ngàn quan tâm đến “lịch sử xa” thì Đội gạo lên chùa quan tâm đến “lịch sử gần”. Đội gạo lên chùa có phần lịch sử hiện đại là giai đoạn chống Pháp và Mỹ. Trong tác phẩm này, Nguyễn Xuân Khánh nói đến ứng xử của con người trước những biến động của lịch sử theo quan điểm tùy duyên. Ông viết về những cái được mất trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, và ngay cả thời bình, con người vẫn gặp đầy rẫy đau khổ, trong đó có những đau khổ do sự ấu trĩ và đơn giản của chính chúng ta. Tôi nghĩ viết về chiến tranh cũng thế, phải thấy cả cái hùng lẫn cái bi, cái cao cả lẫn thấp hèn, cái nhân tính và phi nhân tính. Những giá trị ấy không hẳn lúc nào cũng hiện lên theo cách phân tuyến mà nhiều khi cùng hiện hữu trong từng con người cụ thể. Trong quan niệm hiện đại, lịch sử không tồn tại tĩnh lặng, mà luôn chuyển động. Là một phần của lịch sử, chiến tranh, khi đi vào nghệ thuật, phải được diễn dịch lại, cấu trúc lại theo cái nhìn của chủ thể sáng tạo. Bởi thế, có bao nhiêu tác phẩm về chiến tranh là có bấy nhiêu lần chiến tranh được tái cấu trúc.
Còn nhớ, để miêu tả trận Borodino diễn ra gần 60 năm trước khi viết Chiến tranh và hòa bình, văn hào Lép Tôn-xtôi đã dày nghiên cứu, điều tra kỹ lưỡng; kết quả là ông đã miêu tả cuộc chiến một cách mĩ mãn. Thông qua việc miêu tả cuộc chiến, nhà văn đã nói lên sự vĩ đại của dân tộc Nga, tính cách Nga và tri nhận lịch sử bằng cái nhìn giàu tính nhân đạo. Sự vĩ đại của Tôn-xtôi nằm ở chỗ, sau này người ta biết đến trận Borodino qua tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của ông nhiều hơn là qua các bộ sử.

Viết về hai cuộc kháng chiến đã qua của dân tộc, việc lựa chọn điểm nhìn nào, tâm thế nào buộc nhà văn phải tính đến. Điều đó sẽ giúp họ miêu tả cuộc chiến phiến diện hay không phiến diện. Ở đây, cái nhìn nghệ thuật của nhà văn cần mang chứa những quan niệm/ tư duy mới về lịch sử. Mặt khác, cần phải nhớ rằng lịch sử không phải là câu chuyện riêng của những anh hùng có tên mà còn là câu chuyện của những anh hùng không tên, những anh hùng vô danh nhưng vĩ đại.

Nói thế để thấy rằng viết về chiến tranh luôn là một thử thách đầy khó khăn đối với người cầm bút. Muốn viết hay, dứt khoát họ phải có tài năng thực, đam mê thực và một chiến lược tự sự hiện đại, hợp lý.

PV: Với tư cách là Viện trưởng Viện Văn học, ông nghĩ cần có những điều kiện gì để văn học viết về chiến tranh trở lại như xưa?

PGS, TS Nguyễn Đăng Điệp: Đây là cả một câu chuyện dài, liên quan đến nhiều phía: Sự đam mê của nghệ sĩ, sự quan tâm của các nhà quản lý, sự ủng hộ cái mới của người tiếp nhận vì không thể thẩm định những sáng tạo mới bằng đôi mắt cũ, bằng những định kiến cũ. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất chính là niềm say mê của nhà văn, là tinh thần đối thoại lịch sử nên gốc nền nhân bản nhân văn. Tôi nghĩ, nếu nhà văn miêu tả và lý giải về chiến tranh bằng cái nhìn nhân văn hiện đại, họ không bao giờ bị lạc vào hư vô. Thậm chí, họ chính là những người khơi thức những giá trị hiện đại tiềm ẩn trong những giá trị tưởng đã vĩnh viễn trôi qua...

- Xin cảm ơn PGS, TS Nguyễn Đăng Điệp!

HÀM ĐAN (thực hiện)

NHỮNG KINH NGHIÊM NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT CHIẾN TRANH NƯỚC NGOÀI



Chiến tranh luôn là một đề tài tạo cảm hứng bất tận cho văn học; trong đó, tiểu thuyết là thể loại văn học có nhiều thành tựu hơn cả. Mối quan hệ tốt đẹp này không hề khó hiểu. Trước hết, chiến tranh tạo ra cuộc sống bất bình thường; những cảm xúc con người lên tới cao độ, nhất là khi đối diện với cái chết. Để thể hiện sự phức tạp của chất liệu chiến tranh qua phương thức sáng tạo đặc thù của văn học thì tiểu thuyết tỏ ra có ưu thế bởi tiểu thuyết là “thể loại duy nhất còn đang chuyển biến” và “nòng cốt chưa hề rắn lại”-như nhà lý luận tiểu thuyết kiệt xuất người Nga Mi-khai-in Ba-khơ-tin (Mikhail Bakhtin, 1895-1975) từng nhận xét.

Ở các nền văn học phát triển, không chỉ có những tiểu thuyết gia từng kinh qua chiến tranh mới viết và viết hay về đề tài chiến tranh. Thời gian càng lùi xa, hiện nay, chính những nhà văn trẻ không biết đến mùi thuốc súng mới đang là chủ lực làm nên những tiểu thuyết chiến tranh hay nhất. Đặt một sự so sánh với hoàn cảnh nước ta mới dứt tiếng súng chưa lâu và trong suốt chiều dài lịch sử trải qua nhiều chiến thắng quân sự oai hùng; nhưng lại không có các tiểu thuyết xứng tầm. Vì vậy, việc tìm hiểu căn nguyên thành công của tiểu thuyết chiến tranh nước ngoài và rút ra kinh nghiệm để làm mới tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam là điều cần thiết.

***

Trước khi sáng tác, mỗi nhà văn đều có thái độ nhìn nhận cuộc chiến dưới góc nhìn cá nhân, điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của các tiểu thuyết sau này. Về cơ bản thái độ của các nhà văn nhìn chiến tranh theo hai hướng sau: Thứ nhất, xem cuộc chiến là chính nghĩa hay phi nghĩa. Ví dụ ở Mỹ, các văn nghệ sĩ nói chung xem việc quân đội Mỹ can dự vào Đệ nhị Thế chiến (1939-1945) là hợp đạo nghĩa khi họ chống lại phe Phát xít cứu loài người và nhất là họ bị tấn công trước trong trận Trân Châu cảng ngày 7-12-1941. Ngược lại, với cuộc chiến Việt Nam, các văn nghệ sĩ Mỹ đều bày tỏ hoài nghi về tính chính đáng trong việc tham chiến và nuối tiếc cái giá của cuộc chiến là quá lớn. Thái độ thứ hai là nhà văn nhìn bất cứ cuộc chiến tranh đều là thảm họa cho con người nói chung. Hai xu hướng trên xuất hiện song song nhau với nhau và đều để lại tác phẩm giá trị.

Việc lựa chọn khuynh hướng nhằm khẳng định tư tưởng là yếu tố chủ đạo trong tiểu thuyết chiến tranh chỉ thịnh hành hồi đầu thế kỷ XX như tiểu thuyết kinh điển “Phía Tây không có gì lạ” (1929) của nhà văn Đức E-ríc Ma-ri-a Rơ-mác (Erich Maria Remarque, 1898-1970). Ý nghĩa và mức độ tàn khốc của cuộc chiến như cách liệt kê trong sách giáo khoa lịch sử bị hạn chế tối đa trong tiểu thuyết chiến tranh đương đại.

Ngày nay, đa phần các nhà văn có thể lựa chọn bất kỳ một cuộc chiến nào với chức năng làm bối cảnh cho tiểu thuyết để đạt đến mục đích chính là khám phá tâm lý, tâm linh con người, nhất là người chiến sĩ. Như trong tiểu thuyết “Nhẫn thạch” của nhà văn Pháp gốc Áp-ga-nix-tan A-típ Ra-hi-mi (Atiq Rahimi) đoạt giải Goncourt 2008, kể về câu chuyện người phụ nữ Áp-ga-nix-tan chăm sóc người chồng trúng đạn sống “thực vật” trong một căn phòng chật hẹp. “Nhẫn thạch” có thể xem là một tiểu thuyết chiến tranh tối giản khi không khí cuộc chiến tàn khốc ở Áp-ga-nix-tan chỉ hiện diện thông qua tiếng súng vang vọng từ ngoài căn phòng. Cuốn tiểu thuyết lời độc thoại của người vợ với người chồng còn sống mà như đã chết, và cô đã nói hết tất cả những ẩn ức dồn nén của người phụ nữ Hồi giáo mà không cần e ngại vi phạm cấm kỵ. Những lời bộc bạch của cô có lẽ cũng là lời của một dân tộc đã quá suy kiệt vì chinh chiến suốt hàng thập kỷ. Qua “Nhẫn thạch”, chúng ta có thể rút ra một kinh nghiệm hay đó là một tiểu thuyết chiến tranh tầm cỡ không nhất thiết phải sử dụng chất liệu là những trận chiến đẫm máu với những mốc sự kiện lịch sử cụ thể mà cần chú trọng đến thân phận con người trong chiến tranh. Chú trọng làm rõ thân phận con người một cách cụ thể, có chiều sâu lập tức sẽ phản chiếu được tính chất, mức độ... của cuộc chiến.

***

Một vấn đề mà lâu nay người sáng tác văn học ở Việt Nam luôn mắc phải như húc vào tường là giải quyết vấn đề giữa văn học và hiện thực. Nhìn một cách cụ thể ở trường hợp của tiểu thuyết chiến tranh, nhiều người lo ngại thế hệ nhà văn trẻ trưởng thành sau năm 1975 chỉ biết đến chiến tranh thông qua tư liệu sẽ khó viết hay hơn các tiền bối đã có kinh nghiệm khi vừa cầm bút vừa cầm súng. Điều lo ngại nói trên là chính đáng nhưng không đáng... lo ngại! Quy luật văn học cho thấy, không phải cuộc chiến lớn sẽ cung cấp chất liệu để cho ra đời tác phẩm lớn; đồng thời, nhiều tiểu thuyết gia viết về chiến tranh chỉ thông qua tư liệu cũng có thể đạt được thành công như trường hợp nhà văn Pháp Alexis Jenni (A-lê-xi Gien-ni) sinh năm 1963 đã viết tiểu thuyết dày hơn 600 trang “Binh thư của người Pháp” (2011) đoạt Giải Goncourt 2011 về cuộc chiến của người Pháp Đông Dương và An-giê-ri.

Khoảng giữa thế kỷ XX là thời điểm các yếu tố đối nghịch với chất liệu trần trụi, tàn khốc của chiến tranh như trào phúng, huyền ảo... xâm nhập mạnh mẽ làm phong phú thêm tiểu thuyết chiến tranh, tạo ra những kiệt tác như tiểu thuyết “Lò sát sinh số 5” (1969) của nhà văn Mỹ Cớt Vôn-nê-gớt (Kurt Vonnegut, 1922-2007) viết về cuộc du hành xuyên thời gian của anh lính Bi-li Phiêu-rum (Billy Pilgrim) đang tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Với các nền văn học đi sau như Trung Quốc, Nhật Bản... những yếu tố phi thực khi kết hợp với tư duy, văn hóa và chất liệu bản địa đều tạo ra những tác phẩm độc đáo như trường hợp các tiểu thuyết của nhà văn mới đoạt giả Nobel Văn học 2012 Mạc Ngôn. Ở nước ta, tác phẩm văn học đậm chất phi thực rất hiếm, đặc biệt là trong tiểu thuyết chiến tranh, không hiểu sao các nhà văn nước ta không thử nghiệm theo hướng sáng tạo này? Hiện tại, những tiểu thuyết chiến tranh viết theo kiểu hiện thực “soi gương” gần như không còn được chú ý! Lý do là thời buổi bây giờ là thời đại nghe-nhìn, tiểu thuyết chiến tranh không thể địch nổi với phim ảnh kể cả phim tài liệu chiến tranh; thậm chí nếu một loạt bài báo viết về một trận chiến mà công phu, hấp dẫn có khi còn nhiều người đọc hơn một tiểu thuyết chiến tranh dày cộp.

Có người sẽ lý luận rằng: Các tiểu thuyết phi thực mới mẻ, hấp dẫn đấy nhưng sẽ làm mất đi cái nhìn về đầy đủ về cuộc chiến và đề tài chiến tranh cứ phải viết theo lối viết thực mới hợp lý nhất. Nhưng những người phản bác quên mất rằng, các tiểu thuyết phi thực chỉ đi tìm cách thức diễn đạt khác chứ mục đích của nó không khác các tác phẩm hiện thực là đều muốn nêu ra bản chất khốc liệt của chiến tranh và số phận con người bị thử thách thông qua chiến tranh.

***

Đành rằng, để có một tiểu thuyết lớn nói riêng và một tác phẩm văn học nói chung điều quan trọng là tài năng cá nhân nhà văn. Song, để có một nền tiểu thuyết chiến tranh đa dạng và có chất lượng, thiết nghĩ những ai cầm bút đều phải hiểu biết tối thiểu những đặc trưng của thể loại mới có thể hy vọng có những tiểu thuyết lớn.

Đầu tiên, tiểu thuyết không phải là tác phẩm tự sự cỡ lớn như lâu nay nhiều người ở nước ta quan niệm. Tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết khi đi theo nguyên tắc truyện kể theo xu hướng tiểu thuyết hóa với yêu cầu sáng tạo tự do, mới mẻ trong cách kể. Các tiểu thuyết chiến tranh của nước ngoài không chỉ đạt đến tầm cao của tư tưởng mà còn đi rất xa trên con đường hình thức với nghệ thuật cấu trúc truyện kể tinh vi. Yếu kém trong nghệ thuật cấu trúc văn bản không chỉ có trong tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam mà còn nhìn rộng ra cả nền văn học. Giải pháp này thực ra nằm ở chính trong mỗi nhà văn khi anh ta phải luôn tìm cách đổi mới cách kể nhằm hấp dẫn người đọc.

Đặc trưng quan trọng khác của tiểu thuyết là thể loại cho phép nhà văn đổi mới ngôn ngữ triệt để. Quan niệm cũ xem ngôn ngữ là phương tiện chứ không phải mục đích vẫn khá phổ biến. Hầu hết tiểu thuyết Việt Nam đều sử dụng ngôn ngữ trung tính như lời nói hàng ngày mà quên mất rằng ngôn ngữ có nhiều biến thể mang tính thẩm mỹ ở nhiều trường hợp khác nhau có thể áp dụng vào trong tiểu thuyết. Ví dụ như, tiểu thuyết “Đàn hương hình” (2001) của Mạc Ngôn nói về cuộc loạn chiến giữa quân triều đình nhà Thanh, quân nông dân khởi nghĩa và cả quân nước ngoài; nhưng sử dụng ngôn ngữ kịch Miêu xoang nên tiểu thuyết trở nên lạ lùng khi cốt truyện hấp dẫn đặc trưng tiểu thuyết nhưng khi đọc lại cảm tưởng như đang ở trong nhà hát xem kịch cổ điển. 

Tiểu thuyết như đã nói là thể loại tự do nhất trong văn học. Cốt lõi để có tiểu thuyết hay là nhà văn có nhiều ý tưởng để sáng tạo và quan trọng là có bản lĩnh dám đi đến cùng những ý tưởng đó không. Chất liệu chiến tranh dồi dào, nhiều phương pháp sáng tác tiên tiến đã và đang được phổ cập ở Việt Nam, đó là những cơ sở để tin nhà văn Việt Nam sẽ sáng tác được nhiều tiểu thuyết chiến tranh hay trong tương lai.  

HÀM ĐAN

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

THỜI ĐÀM (XXVII): DẰN LÒNG CHỜ ĐỢI


Văn học Việt Nam đương địa đã bắt kịp với những vấn đề mới cuộc sống đặt ra. Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm viết về những vấn đề thời đại chưa để lại tác phẩm hay, nhất là ở các cây bút trẻ. Nguyên nhân xuất phát từ nhận thức sai lầm là chất liệu đời sống mới sẽ cho ra đời những tác phẩm hay. Trong khi đó, xuất hiện khuynh hướng sáng tác quay trở lại với đề tài lịch sử và đã để lại thành tựu với bộ ba tiểu thuyết lịch sử-văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh là “Hồ Quý Ly”, “Mẫu thượng ngàn” và “Đội gạo lên chùa”. Thành công của bộ ba thuyết lịch sử-văn hóa kể trên không chỉ được ghi nhận thông qua các giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội…; mà còn được bạn đọc và bạn nghề thừa nhận trong việc khai phá đề tài và một số cách tân nghệ thuật.

Tiểu thuyết lịch sử ngay từ trước năm 1945 đã có nhiều nhà văn chọn để thử bút lực. Tuy nhiên, trước Nguyễn Xuân Khánh, các nhà văn đều kể lịch sử thông qua các sự kiện từ chính sử với những nhân vật lịch sử nổi danh. Sự làm mới có chăng là cung cấp ngôn ngữ, lối nghĩ hiện đại để cấp cho các nhân vật đã quá xa xăm. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh khác hẳn. Dù tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” nói về một vị vua thời trung đại nhưng thực chất Nguyễn Xuân Khánh đã thổi một luồng khí mới mẻ vào thể loại tiểu thuyết lịch sử, kéo câu chuyện thời quá khứ gắn kết với câu chuyện của thời hiện tại. Đến hai tiểu thuyết sau là “Mẫu thượng ngàn” và “Đội gạo lên chùa”, Nguyễn Xuân Khánh mới thực sự là một nhà nghiên cứu văn hóa trong tư cách nhà văn.

Sự làm mới tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh càng đáng trọng khi ta biết ông xuất bản “Hồ Quý Ly” ở cái tuổi gần 70. Con đường sáng tạo của Nguyễn Xuân Khánh hơi ngược trong văn giới Việt Nam. Thói thường, ở ta, các nhà văn có chút năng khiếu đều phát tiết sớm nhưng ít có sự nghiệp kéo dài đến lúc đầu bạc răng long. Cũng có trường hợp như Nguyên Hồng (1918-1982) có một sự nghiệp kéo dài từ hồi chưa đến tuổi 20 cho đến khi qua đời, nhưng công bằng nhận xét tác phẩm về sau của ông không vượt lên những tác phẩm đầu tay như: “Bỉ vỏ”, “Những ngày thơ ấu”…

Sự thành công muộn màng và mang tính tiệm tiến của Nguyễn Xuân Khánh không hề lạ lùng nếu ta xét đến cách thức viết văn và thể loại tiểu thuyết ông theo đuổi. Tiểu thuyết lịch sử-văn hóa là một dạng tiểu thuyết lai ghép với công trình nghiên cứu. Sở dĩ chỉ có tiểu thuyết làm được vì nó là thể loại trẻ có khả năng ôm chứa mọi chất liệu. Tất nhiên, dù mục đích suy ngẫm về văn hóa và lịch sử dân tộc, nhưng trước tiên là phải có hồn cốt tiểu thuyết khi sử dụng các hình tượng, xây dựng cốt truyện… để hấp dẫn người đọc. Bộ ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh có thể so sánh như tiểu thuyết “Những người bóng dài” (Hoàng Đình Trực dịch, NXB Thanh Hóa, 1987) của nhà văn Thụy Sĩ Han Rắt (1913-2007) tiểu thuyết về người Eskimo sống gần Bắc Cực hoặc tiểu thuyết “Thế giới của Sophie” (Huỳnh Phan Anh dịch, NXB Văn hóa-Thông tin, 1998) của nhà văn Na Uy Giôn-tên Gác-đơ là tiểu thuyết viết về lịch sử hơn 2000 năm của triết học phương Tây.

Loại tiểu thuyết nghiên cứu này chỉ hợp với kiểu nhà văn như Nguyễn Xuân Khánh! Trước tiên và hiển nhiên là phải có chút ít năng khiếu viết văn. Nguyễn Xuân Khánh đã được trời cho chút ít “đủ dùng” như bao người. Điều sau mới khó đó là đòi hỏi nhà văn như một nhà nghiên cứu, Nguyễn Xuân Khánh dư sức đáp ứng vì tiếng Pháp của ông rất giỏi, ông có thể thu nhận nhiều nguồn tri thức để mở rộng phông văn hóa, khiến cho tiểu thuyết của ông có chiều sâu tư tưởng. Và cuối cùng, có lẽ là sự kiên nhẫn trong sáng tạo. Điều cuối cùng này nhiều người cho là chẳng quan trọng gì. Nhưng văn chương cần một sự yên tĩnh để tìm hướng đi cho đề tài, trăn trở bút pháp… mới có thể cho ra đời tác phẩm có chất lượng. Khá nhiều nhà văn ở ta, nhất là nhà văn trẻ hôm nay mắc cái bệnh “sốt ruột nổi tiếng”, nhanh nhanh chóng chóng in tác phẩm để lấy tên, còn lại thì… mặc kệ. Với lối nghĩ và cách làm việc như vậy, đừng thắc mắc vì sao văn học Việt Nam vài chục năm tới sẽ khó có cái tên tre trẻ nào đình đám.

Kể ra trường hợp sáng tạo của Nguyễn Xuân Khánh và đối chiếu với thế hệ nhà văn trẻ hôm nay, không phải để hô hào các nhà văn trẻ hãy viết theo lối tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Mỗi con người (trong đó có nhà văn) là một “tiểu vũ trụ” chẳng ai giống ai, trong việc sáng tạo lại càng không nên giống nhau. Mặt khác, bộ ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh cũng không hẳn là tuyệt tác, nó chỉ thành công trong kiểu tiểu thuyết nghiên cứu. Tuy nhiên, sự thành công của Nguyễn Xuân Khánh đã để lại bài học quý‎ báu đó là viết văn phải lựa chọn hướng đi riêng hợp với cái “tạng” của mình, không thể vội vàng “bán lúa non” mà dằn lòng chờ đợi nuôi dưỡng đam mê và đầu tư nghiêm túc một cách lâu dài.

HOÀNG BÌNH PHƯƠNG

Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2012

NOBEL VĂN HỌC 2012: MẠC NGÔN, "NHÀ VĂN CHÂN ĐẤT"


Bỏ bê blogspot hơi lâu. Post bài này cho nó máu :))

Khi Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn giành giải Nobel Văn học 2012 thì không một ai ngạc nhiên, vì kết quả đã được dự báo trước. Thời điểm mùa giải Nobel 2012 rục rịch khởi động, dân cá cược đều tiên đoán giải sẽ không dành cho một nhà thơ hay một người châu Âu vì năm ngoái nhà thơ nước chủ nhà Tomas Tranströmer đã được vinh danh. Mọi dự đoán dồn hết vào các cây bút văn xuôi đến từ châu Á và châu Mỹ như: Alice Munro, Haruki Murakami (Nhật Bản), Mạc Ngôn (Trung Quốc)…
Trao giải Nobel Văn học cho Mạc Ngôn - một trong những nhà văn tiêu biểu của châu Á, thể hiện Viện Hàn lâm Thụy Điển đã hòa vào niềm tin của sự chuyển dịch tâm điểm địa chính trị thế giới sang châu Á, và cũng đánh giá cao vai trò của văn hóa châu Á. Nhưng, đó là lý do phi văn chương, nếu chỉ xét tác phẩm, nhiều người đặt câu hỏi: Liệu tác phẩm của Mạc Ngôn có đạt đến tầm giải thưởng văn chương uy tín nhất thế giới?
Những người không thích Mạc Ngôn có cái lý khi cho rằng: Tác phẩm của Mạc Ngôn không đem lại điều gì độc sáng như những tác phẩm của James Joyce (1882-1941), Franz Kafka (1883-1934), Jorge Luis Borges (1899-1986)… Tuy nhiên, một sự nghiệp văn học lớn không chỉ thể hiện ở vai trò mở đường mà có thể là tài năng pha trộn. Mạc Ngôn thuộc kiểu nhà văn như là “phù thủy” khi ông kết hợp được nhiều yếu tố trái ngược nhau một cách nhuần nhuyễn. Đặc biệt, ông là “nhà văn pha trộn được chủ nghĩa hiện thực ảo giác với truyện dân gian, lịch sử và đương đại”- như lời tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển. Xuyên suốt các tác phẩm của Mạc Ngôn là văn hóa dân gian và câu chuyện lịch sử Trung Quốc khá xa lạ với đông đảo người đọc năm châu nhưng nhờ những kỹ thuật viết văn và chiều sâu tư tưởng mang tầm nhân loại nên đọc Mạc Ngôn sẽ quên đi tác phẩm đang đề cập đến lịch sử và con người Trung Quốc mà đang là câu chuyện về kiếp người nói chung.
Chừng đó thôi, cũng có thể hiểu, Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải cho Mạc Ngôn là chính xác vì tự thân tác phẩm Mạc Ngôn xứng đáng được vinh danh. Trao giải Nobel cho Mạc Ngôn là thêm một lần nữa Viện Hàn lâm Thụy Điển củng cố uy tín của Giải Nobel Văn học bất chấp nhiều sức ép chỉ trích.
***
Dù Mạc Ngôn đã viết hơn 200 tác phẩm nhưng mạch văn chương không thay đổi bao nhiêu. Hơn 30 năm cầm bút, Mạc Ngôn vẫn được xem là “nhà văn chân đất” khi viết về số phận những con người Trung Quốc bình thường chịu bao va đập của thời thế; qua đó, ông đã thể hiện cái sức sống mãnh liệt của nhân dân và tin rằng lịch sử dân tộc được viết bằng cuộc sống, suy nghĩ của quần chúng vô danh.
Thái độ sáng tác của Mạc Ngôn có thể cắt nghĩa dễ dàng nếu nhìn vào tiểu sử của ông, nhất là khi ông đã trải qua “tuổi thơ dữ dội”. Mạc Ngôn tên thật là Quản Mô Nghiệp sinh ngày 17-2-1955 tại làng Bình An Trang, huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc; trong một gia đình nông dân. Vì nhiều biến động xã hội, lúc 10 tuổi, ông phải nghỉ học để đi chăn dê, luôn đói khát và cô đơn. Ngay trong thời điểm gian khó nhất, Mạc Ngôn vẫn luôn tự học và đọc sách rất nhiều, say mê tiểu thuyết Trung Quốc và châu Âu… Năm 1976, ông nhập ngũ, nhờ tự bồi dưỡng trở thành giáo viên trong quân đội. Từ đây, Mạc Ngôn có điều kiện học hành căn bản: Năm 1984, ông trúng tuyển vào khoa Văn thuộc Học viện Nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986, rồi chuyển sang hoạt động trên lĩnh vực báo chí và viết văn. Từ năm 1988-1991, ông làm nghiên cứu sinh sáng tác văn học thuộc Học viện Văn học Lỗ Tấn, Trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Hiện tại, Mạc Ngôn là Phó chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc.
Song hành với quá trình sống và tích lũy kiến thức, sự nghiệp sáng tác của Mạc Ngôn cũng mang tính tiệm tiến. Năm 1981, ông bắt đầu công bố các tác phẩm đầu tay nhưng mãi đến truyện dài “Củ cải đỏ trong suốt” (1985) mới gây được chú ý của văn giới. Từ đây, xuất hiện bút danh Mạc Ngôn do ông tách chữ “Mô” trong tên ông có nghĩa là “cơ mưu” thành hai chữ “Mạc” (không có) và “Ngôn” (lời nói), ngụ ý tự răn mình không nên nói nhiều. Hài hước ở điểm, rút cuộc, ông lại nói liên tục qua các hoạt động thuyết trình, phỏng vấn, giảng bài…
Một năm sau, sự nghiệp của Mạc Ngôn bắt đầu bước lên đỉnh cao khi tiểu thuyết “Cao lương đỏ” (Lê Huy Tiêu dịch, NXB Phụ nữ, 2000) ra đời. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhờ đạo diễn Trương Nghệ Mưu chuyển thể sang bộ phim cùng tên và đoạt giải Gấu vàng của Liên hoan phim Berlin 1988. “Cao lương đỏ” tuy thuộc dòng văn học “phản tư” (suy nghĩ lại) phổ biến ở Trung Quốc nhưng lại được xem là cột mốc cho phong cách văn chương của Mạc Ngôn khi sử dụng lịch sử kết nối với hiện đại thông qua giọng kể và góc nhìn nhân vật quá khứ. “Cao lương đỏ” là hồi ức của người xưng “tôi” kể về chuyện đời và chuyện tình của ông bà nội mình là Từ Chiếm Ngao và Đái Phượng Liên - trong bối cảnh của miền quê Cao Mật những năm 1920-1930. Khi quân Nhật Bản kéo đến xâm lược, Từ Chiếm Ngao trở thành một tư lệnh quân du kích. Cũng từ đây, địa danh làng Đông Bắc Cao Mật trở nên nổi tiếng được Mạc Ngôn sử dụng trở đi trở lại trong các tác phẩm của ông như biểu tượng của một Trung Quốc thu nhỏ; số phận thăng trầm của dân Đông Bắc Cao Mật cũng là số phận của nhân dân Trung Quốc. Đây là điều Mạc Ngôn ảnh hưởng từ nhà văn Mỹ William Faulkner (Nobel Văn học 1949).
Sau thành công của “Cao lương đỏ” là quãng sáng tác sung sức của Mạc Ngôn trong gần 10 năm với hàng loạt tác phẩm như: “Hoan lạc”, “Châu chấu đỏ”, “Hình chó trắng trời thu”, “Bạch miên hoa”, “Tửu quốc”…
Nhưng tác phẩm đưa tên tuổi Mạc Ngôn vượt ra ngoài biên giới Trung Quốc và bản thân ông cũng nói rằng để hiểu Mạc Ngôn thì phải đọc tác phẩm này, đó là tiểu thuyết “Phong nhũ phì đồn” (tựa Việt: “Báu vật của đời”, Trần Đình Hiến dịch, NXB Văn nghệ, 2001). Tháng 9-1995, tiểu thuyết “Phong nhũ phì đồn” phát hành trở thành một hiện tượng văn học ở Trung Quốc. Tiểu thuyết kể về cô gái Lỗ Toàn Nhi lấy chồng là Thượng Quan Thọ Hỷ bất lực nên phải lấy giống đàn ông đủ loại sinh ra tám gái, một trai. Tác phẩm khái quát cả một giai đoạn lịch sử bi tráng của đất nước Trung Quốc suốt thế kỷ XX thông qua số phận các thế hệ một gia đình.
Hơn 800 trang tiểu thuyết “Phong nhũ phì đồn” hấp dẫn từ đầu đến cuối nhưng xét về mặt nghệ thuật viết văn lại không được đánh giá cao bằng tiểu thuyết “Đàn hương hình” (Trần Đình Hiến dịch, NXB Phụ nữ, 2002) xuất bản năm 2001. Nhiều nhà phê bình uy tín xem “Đàn hương hình” mới là kiệt tác của Mạc Ngôn. Ngoài nội dung hấp dẫn kể về những sự kiện xảy ra trên mảnh đất Cao Mật dưới thời nhà Thanh và nghệ thuật các hình phạt tử tù; tác phẩm dùng kỹ thuật tự sự tinh vi khi mỗi nhân vật tự thuật theo phong cách hý kịch Miêu Xoang của vùng Đông Bắc Cao Mật. Sau khi “Đàn hương hình” gây tiếng vang lớn, rất nhiều người tin rằng Mạc Ngôn sớm muộn cũng sẽ đoạt giải Nobel Văn học.

                                                          ***
Mạc Ngôn trở thành nhà văn lớn xuất phát từ việc ông sớm trả lời thông qua các tác phẩm những câu hỏi căn bản: Văn học là gì? Viết văn để làm gì? Thái độ văn chương như thế nào?
Mạc Ngôn quan niệm viết văn tương tự bao công việc khác, nhà văn không phải là “kỹ sư tâm hồn” bởi nhà văn thực ra chẳng những không cao minh hơn độc giả mà anh ta còn không hơn nhân vật trong tác phẩm của mình. Trong suy nghĩ của Mạc Ngôn, viết văn không phải là “sáng tác cho người dân” vì như vậy nhà văn đang giống như ông thầy dạy bảo độc giả; ông luôn xem mình là loại “sáng tác với tư cách người dân” không hề trịch thượng. Quan niệm này ở phương Tây không có gì lạ lẫm nhưng đặt trong dòng chảy văn học Trung Quốc thì quả là táo bạo vì ai cũng biết dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, văn học Trung Quốc luôn muốn cố gắng phơi bày, đả kích, giáo hóa…; luôn dùng văn chương như là một thứ công cụ để "tải đạo” hoặc “minh đạo”. Quan niệm văn chương như vậy nên thái độ văn chương của Mạc Ngôn đứng về phía nhân dân như bênh vực người nông dân điêu đứng vì nạn quan liêu trong “Cây tỏi nổi giận” (Trần Đình Hiến dịch, NXB Văn học, 2003). Không chỉ là nhà văn tài năng, Mạc Ngôn còn được xem là một nhà nhân văn lớn của Trung Quốc đương đại.
Dù không tự nhận là “người phát ngôn của nhân dân”, nhưng người dân Trung Quốc tự hào về Mạc Ngôn - công dân Trung Quốc đầu tiên giành giải Nobel Văn học - nhà văn đã đưa những con người bình dị đi vào trang văn bất hủ và quan trọng hơn là cùng nhìn cuộc sống qua góc nhìn của người dân.
Chưa đến tuổi 60, Mạc Ngôn chắc chắn sẽ cho ra đời nhiều tác phẩm nữa. Một phần do Mạc Ngôn thường viết rất nhanh như cuốn tiểu thuyết “Sống đọa thác đày” (Trần Trung Hỷ dịch, NXB Phụ nữ, 2007) gồm hơn 43 vạn từ mà ông chỉ viết trong 43 ngày! Sâu xa, ông vốn quan niệm viết văn tương tự bao công việc khác, khi nào không còn sức thì mới nghỉ ngơi.

HÀM ĐAN

Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2012

DỊCH GIẢ THÚY TOÀN: "VĂN HỌC NGA CÒN NHIỀU ĐỈNH CAO CHƯA ĐƯỢC GIỚI THIỆU"


Mới đây, Hội Nhà văn Việt Nam đã công bố quyết định thành lập Quỹ hỗ trợ quảng bá văn học Việt-Nga (gọi tắt là Qũy). Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc phỏng vấn dịch giả Thúy Toàn-Giám đốc Quỹ về quá trình hình thành và những phương hướng hoạt động trong thời gian tới của tổ chức non trẻ này.

Phóng viên (PV): Xin ông cho biết, ý tưởng về Quỹ hỗ trợ quảng bá văn học Việt-Nga bắt nguồn từ đâu?

Dịch giả Thúy Toàn: Ý tưởng thành lập một tổ chức dịch thuật chuyên nghiệp của Việt Nam tương tự như ở một số nước đã có từ lâu. Tôi và dịch giả tiếng Hàn Quốc Lê Đăng Hoan đã từng đề xuất với Hội Nhà văn Việt Nam về việc cần có một trung tâm dịch thuật chính thống đứng ra kết nối, tổ chức, thực hiện thay cho nỗ lực riêng lẻ của cá nhân hay đơn vị tư nhân. Trong khi chờ một trung tâm dịch thuật đa ngữ hình thành, việc ra đời Quỹ hỗ trợ quảng bá văn học Việt-Nga được xem là bước thử. Bắt nguồn truyền thống giao lưu văn học giữa Việt Nam và Nga, gần đây, phía các bạn Nga có một đề án cấp nhà nước, đề nghị chúng ta giới thiệu một số tác phẩm văn học trong giai đoạn gần đây để dịch sang tiếng Nga. Trong chuyến công tác của đoàn nhà văn Việt Nam tại Nga gần đây, đề xuất này được cả hai bên nhất trí triển khai.

Theo quyết định của Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam, tôi sẽ đảm nhiệm vai trò Giám đốc Quỹ, còn hai Phó Giám đốc là dịch giả Lê Đức Mẫn và TS Thụy Anh. Hội đồng cố vấn về chuyên môn của Quỹ có sự tham gia của PGS, TS Phạm Vĩnh Cư, nhà thơ-dịch giả Bằng Việt, các dịch giả Đoàn Tử Huyến, Vũ Thế Khôi, Từ Thị Loan. Hiện tại, Quỹ trực thuộc BCH Hội Nhà văn Việt Nam; sau này trung tâm dịch thuật ra đời, Quỹ có thể sẽ sát nhập để phục vụ mục đích chung.

PV: Về lâu về dài, những dự án nào để giới thiệu văn học hai nước sẽ được Quỹ quan tâm hỗ trợ?

Dịch giả Thúy Toàn: Chúng tôi đang lên chương trình giới thiệu cho phía bạn dịch các tiểu thuyết “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng, “Mưa mùa hạ” của Ma Văn Kháng, “Mẫu thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh cùng hai tuyển truyện ngắn, thơ đương đại khác. Phía bạn cũng sẽ giới thiệu với ta một số tác phẩm tiêu biểu của văn học Nga. Nhiều người lầm tưởng văn học Nga đã được giới thiệu quá đầy đủ ở Việt Nam nhưng sự thật văn học Nga còn nhiều đỉnh cao chưa được giới thiệu. Ví dụ như các tác phẩm của Na-bô-cốp, Rút-xốp, Xta-nhiu-cô-vích... Phương châm của chúng tôi là hễ tác phẩm nào hay của văn học hai nước mà chưa được người đọc biết đến thì sẽ dịch và giới thiệu chứ không tập trung vào một giai đoạn văn học cụ thể nào.

Trước mắt, dự kiến vào ngày 24-7 tới, tại Trung tâm Khoa học và Văn hóa Nga (501 Kim Mã, Hà Nội), Quỹ sẽ giới thiệu bản dịch tiếng Nga đầu tiên cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” do TS Lê Nhân và PGS-TS Anatoly Sô-cô-lốp dịch.

PV: Nguồn kinh phí để duy trì hoạt động của Quỹ đến từ đâu, thưa ông?

Dịch giả Thúy Toàn: Kinh phí của Quỹ bắt đầu từ số không. Chúng tôi hiểu rằng, trông chờ vào ngân sách Nhà nước hiện nay là khá khó khăn nên chủ yếu phải tự thân vận động. Nhờ sự đóng góp của bạn bè và sức lực anh chị em tham gia xây dựng mà ngay trong ngày ra mắt Quỹ đã có được cuốn sách đầu tiên: “Marian Tkachev, người bạn tài hoa và chí tình” (NXB Hội Nhà văn) gồm tuyển các bài viết của nhà văn-dịch giả Nga suốt đời gắn bó với văn học, văn hóa Việt Nam M.Tkachev… Đến nay, triển vọng tài chính của Quỹ là từ Quỹ Tổng thống Nga để bắt tay vào thực hiện chương trình dịch sách do Hội Nhà văn Việt Nam đề xuất và phía Nga đã có trả lời chấp thuận.

PV: Ông có lo ngại sự xuất hiện của một loạt các tác phẩm văn học Nga tại Việt Nam hiện nay sẽ không được chào đón như trong quá khứ?

Dịch giả Thúy Toàn: Trước đây, việc dịch các tác phẩm văn học Nga khá tốt do có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các nhà xuất bản và quan trọng nhất là được sự trợ giúp của Nhà nước. Kinh tế thị trường đã khiến cho văn học Nga phải chịu sự cạnh tranh với các các tác phẩm dịch từ các nền văn học khác bởi giá trị văn chương lẫn các thức quảng bá chuyên nghiệp. Tuy nhiên, tôi lạc quan về sự tái xuất của văn học Nga lần này vì từ chính nhu cầu thực tế là độc giả Việt Nam bị mất “liên lạc” với tình hình văn học Nga hơn 20 năm qua. Mặt khác, nền văn học Nga là một nền văn học có nhiều tác phẩm có giá trị đích thực. Thêm vào đó, đất nước, con người và văn học Nga với Việt Nam thật hấp dẫn, gần gũi và có nhiều điểm tương đồng nên người đọc Việt Nam sẽ thấy “hình bóng tâm hồn” ở trong văn học Nga.

PV: Quỹ có kế hoạch nào để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ dịch giả tiếng Nga không?

Dịch giả Thúy Toàn: Quỹ mong tìm được những người biết tiếng Nga có nguyện vọng tham gia lĩnh vực dịch văn học. Nếu có khả năng, có đam mê họ sẽ được hỗ trợ kinh phí sang Nga học tập hoặc tham gia các khóa học ngắn hạn về dịch thuật. Nhưng trước mắt, Quỹ sẽ trình BCH Hội Nhà văn Việt Nam thông qua và đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo để xin học bổng. Hiện nay, có rất nhiều dịch giả đang sinh sống ở các địa phương trong cả nước cũng đã liên hệ và bày tỏ sự quan tâm đến sự ra đời của Quỹ. Đây cũng là một đội ngũ người dịch văn học Nga tiềm năng không thể bỏ qua.

PV: Xin cảm ơn dịch giả!

HÀM ĐAN (thực hiện)

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

CANNES 2012: ĐIỂM NHẤN CHUYÊN MÔN


(Cảnh trong phim "Amour" đoạt giải Càng cọ vàng 2012)
Nỗi thất vọng đến từ nước Mỹ

Rạng sáng 28- 5 (theo giờ Việt Nam) liên hoan phim danh giá của nước Pháp- Cannes 2012 đã khép lại. Trong số 22 bộ phim tranh giải Cành cọ vàng năm nay, có 6 bộ phim đến từ nước Mỹ-một con số khá cao so với các lần Liên hoan phim (LHP) Cannes gần đây. Sau giải Cành cọ vàng 2011 cho kiệt tác “The tree of life” (Cây đời); LHP Cannes năm nay, điện ảnh Mỹ gây thất vọng lớn khi cả 6 bộ phim không để lại nhiều ấn tượng cho người xem.  

Gây thất vọng nhất là bộ phim “On the road” (Trên đường) vốn chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Jack Kerouac (1922-1969). Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng ca ngợi tinh thần tự do của tuổi trẻ và độc đáo ở kỹ thuật viết pha tạp những câu văn ngắn kiểu điện tín xen các đoạn văn dài mô phỏng nhạc jazz. Sự thất bại của bộ phim “Trên đường” chứng minh sự bất lực của đạo diễn Walter Salles khi không làm sao chuyển hóa được tinh hoa nghệ thuật ngôn từ trong tiểu thuyết để biến thành điểm nhấn của nghệ thuật hình ảnh động trong điện ảnh. W. Salles đã quá bám sát vào cốt truyện tiểu thuyết khiến bộ phim “Trên đường” trở nên dài lê thê, tẻ nhạt như một bộ phim quảng bá du lịch! Vớt vát cho “Trên đường” có lẽ là nhờ dàn diễn viên trẻ đẹp và diễn xuất có nghề. Nổi bật là vai nhân vật nữ Marylou của diễn viên Kristen Stewart-nổi tiếng khi đóng Bella Swan trong loạt phim “Chạng vạng”, được xem là phát hiện đáng nhớ của Cannes 2012.

Bạn diễn của K. Stewart trong loạt phim “Chạng vạng” là “ma cà rồng” Robert Pattinson cũng xuất hiện tại Cannes 2012 khi là diễn viên chính trong bộ phim “Cosmopolis” (Thành phố quốc tế) của đạo diễn David Cronenberg. Bộ phim này cũng chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn đương đại hàng đầu nước Mỹ Don Dellilo. Bộ phim kể về một ngày bất thường trong đời tỷ phú chứng khoán chưa đến 30 tuổi tên là Eric Parker. Vào lúc “bong bóng” chứng khoán New York sắp thành thảm họa, sự nghiệp lừng lẫy của E. Parker có nguy cơ quay về con số không thì anh lạnh lùng đi... cắt tóc. Để đến được tiệm cắt tóc, Parker phải đi xuyên qua thành phố đang hỗn loạn. Đó cũng là lúc E. Parker quay trở lại kỷ niệm với vợ cũ và cả những người đàn bà đã đi qua đời anh, và trông thấy những bộ mặt thảm hại của cư dân thành phố. Một hành trình ngắn ngủi về địa lý nhưng lại làm biến động phức tạp của tâm lý nhân vật. Robert Pattinson thực sự đã thể hiện được phần nào những cung bậc tâm lý thất thường của E. Parker nhưng nhìn tổng thể thì “Thành phố quốc tế” chỉ được xếp vào hạng “xem được”!

Báo chí Pháp tin rằng, mục đích phim Mỹ đổ bộ xuống Cannes không phải là ham hố tranh giải Cành cọ vàng mà chỉ đơn giản là quảng bá trước khi trình chiếu rộng rãi. Ai cũng biết, LHP Cannes chỉ xếp sau giải Oscar, được nhắc tên liên tục trong gần một tuần tại LHP Cannes thì hiệu quả quảng bá không hề nhỏ, lại còn tiết kiệm hơn so với chiến dịch quảng cáo tốn kém-có khi bằng 1/3 chi phí sản xuất phim.

Cũng không được đánh giá cao như các bộ phim Mỹ là các bộ phim đến từ châu Á. Trong quá khứ, Cannes đã từng là “bệ phóng” tên tuổi cho các bộ phim như: “Farewell my concubine” (Bá vương biệt cơ, 1993) của Trần Khải Ca (Trung Quốc), “Happy together” (Hạnh phúc bên nhau, 1997) và “In the mood for love” (Tâm trạng khi yêu, 2000) của Vương Gia Vệ (Hồng Kông, Trung Quốc)... Tại Cannes 2012, ba bộ phim đến từ Hàn Quốc và Nhật Bản hoàn toàn không gây được bất cứ một tiếng vang nào.

Dù được đánh giá là kỳ LHP đa dạng và phong phú từ nội dung, phong cách và thể loại nhưng Cannes 2012 được xem là một kỳ LHP không có nhiều phim hay, chất lượng các bộ phim không đồng đều.

          Đi theo tiêu chí truyền thống

Sự kém cỏi của những bộ phim tưởng chừng sẽ gây bất ngờ đến từ Mỹ và châu Á khiến giới phê bình đoán chắc lại có thêm một bộ phim châu Âu đoạt giải Cành cọ vàng. Càng đến ngày công bố giải, phim “Amour” (Tình yêu) của đạo diễn Áo Michael Haneke và phim “Au-delà des collines” (Bên kia những ngọn đồi) của đạo diễn Ru-ma-ni Cristian Mungiu nổi lên, biến Cannes 2012 trở thành cuộc đua “song mã”. Cuối cùng, Cành cọ vàng đã thuộc về phim “Tình yêu”. Phim “Bên kia những ngọn đồi” cũng đoạt hai giải quan trọng là giải kịch bản cho C. Mungiu và giải nữ diễn viên chia cho hai diễn viên là Cristina Flutur và Cosmina Stratan.

Sự vinh danh trên chứng tỏ Ban giám khảo Cannes 2012 với chủ tịch là nhà làm phim I-ta-li-a Nanni Moretti đã không có sự lựa chọn theo hướng đổi mới; thay vào đó, tiếp tục đi theo tiêu chí truyền thống của LHP Cannes đó là thể hiện chiều sâu tâm lý con người thông qua các nghệ thuật tự sự phức tạp.

Tuy nhiên, có một điều khá mới đáng chú ý ở Cannes năm nay đó là hầu hết các bộ phim đều đặt nhân vật là những con người bình dị vào những tình huống éo le hoặc gian khổ bất ngờ và từ đó để các nhân vật tự tìm ra cách quay trở lại trạng thái hạnh phúc, bình an trước đó. Có thể lờ mờ tiên đoán rằng, nội dung các bộ phim đang gián tiếp phản ánh sự loay hoay của các nước châu Âu thoát khỏi khủng hoảng nợ công hiện nay! Điều này có nghĩa Cannes năm nay cũng có vẻ gần với Oscar khi bắt đầu quan tâm đến vấn đề đời sống hơn là các chủ đề cao siêu, không sát với thực tế.

Tiêu biểu cho xu hướng về nội dung của Cannes 2012 chính là bộ phim đoạt giải Cành cọ vàng là “Tình yêu” của đạo diễn M. Haneke. Bộ phim kể về cặp vợ chồng đã ngoài tuổi 80 tên là Georges và Anne. Những năm tháng cuộc đời họ trôi qua hạnh phúc bên nhau với nghề nghiệp là giáo viên dạy nhạc. Sóng gió cuộc đời bất ngờ ập đến khi người vợ Anne bị đột quỵ, nằm liệt giường chờ chết. Chính thời điểm gian nan này, tình yêu đích thực và niềm thủy chung được cam kết bằng cả cuộc đời đã giúp họ có thêm nghị lực chống lại bệnh tật để tìm lại hạnh phúc dẫu rằng ngắn ngủi. Phim “tình yêu” là bản tình ca bằng hình ảnh ấn tượng nhất tại Cannes, được báo chí Pháp tôn vinh bằng những từ ngữ đẹp nhất có thể: “đẹp đẽ một cách ngoạn mục”, “tinh thần lãng mạn siêu việt”...

Kết quả cuối cùng của Cannes 2012 không hề gây bất ngờ. Cannes 2012 cũng không có nhiều điều mới mẻ. Vậy, phải chăng Cannes 2012 là một LHP không đáng nhớ? Câu trả lời thực ra tùy vào đánh giá của từng người; nhưng với một kỳ LHP tôn vinh được bộ phim hay nhất, và còn có sự góp mặt của một số bộ phim khá hay thì dẫu sao Cannes 2012 vẫn là một kỳ LHP đáng nhớ.

HÀM ĐAN