Hồi còn ngồi trên ghế nhà trường, nhiều học sinh Việt
Nam từng vò đầu bứt tai tự vấn: “Sao trong sách giáo khoa, chẳng có phát minh
nào gắn tên người Việt Nam?” Càng thêm chữ vào đầu, các học sinh mới vỡ lẽ một
sự thật chẳng mấy vui vẻ: Ở nước ta, chưa có một vị nào có đóng góp lớn về khoa
học cho nhân loại đến mức trẻ em nơi đâu cũng biết.
Thế rồi, như một ánh chớp sáng chói, mới năm ngoái, kì
tích GS Ngô Bảo Châu đoạt giải Fields đã làm chấn động cả nước,
khẳng định người Việt có thể sáng tạo và đóng góp cho nhân loại những
điều lớn lao.
Những gì mà GS Ngô Bảo Châu làm được bị một vài người cho là điều gì đó quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng.
Bất ngờ thì quá rõ vì lâu nay lắm người bị “bản sắc
sáng tạo” của người Việt phủ lên suy nghĩ. Như là một
định mệnh, hình như mỗi dân tộc được trời phú cho bản sắc sáng tạo riêng. Người
Do Thái được trời phú để tạo những phát kiến độc sáng chưa từng có, ba
phát minh vĩ đại nhất ảnh hưởng đến thế kỷ XX đều thuộc về người gốc Do Thái:
Thuyết phân tâm của S. Freud, Thuyết tương đối của A. Einstein và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử của K. Marx. Người Nhật lại là chuyên gia học của người khác đến
tận cùng, rồi sau đó sáng tạo ra cái mới dựa trên cái đã học, ví dụ rõ nhất là
nền công nghiệp điện tử của Nhật Bản. Riêng về người Việt, các nhà nghiên cứu
văn hóa chứng minh, người Việt Nam thích ứng và dung hoà các yếu tố lẻ tẻ rồi
tổng hợp lại thì rất tài, PGS Phan Ngọc gọi cách
sáng tạo đó bằng chữ “bricolage” (lắp
ghép).
“Bản
sắc sáng tạo” lắp ghép bị một số người cho như là luật
Thượng Đế nên người ta cho rằng có một giới hạn trong sự sáng tạo. Xin lấy ví
dụ ở bên văn chương. Rất nhiều lần trong các buổi nói chuyện văn chương, những
nhà văn lão thành thường xuyên thở dài: Nhà văn Việt Nam chỉ sáng tạo cái nho
nhỏ kiểu như truyện ngắn, gần như không có tác phẩm lớn tranh tài sáng tạo với
Thượng đế. Và họ khuyên các nhà văn trẻ: Đừng bao giờ đặt mục đích viết để đoạt
giải Nobel, chỉ cần tác phẩm có nhiều người đọc đã là thành công lắm rồi.
Lời khuyên kia thoạt đầu có vẻ hợp lý dựa trên lối
nghĩ “biết người, biết ta”; nhưng ngẫm kĩ thì còn chưa chính xác, thậm chí phản
động lực. Dĩ nhiên giải thưởng Nobel không phải là tất cả nhưng vẫn là một
trong những thước đo tương đối “chuẩn” để thẩm định tài năng văn chương đích
thực. Vì vậy, một nhà văn Việt nào đó trong tương lai được xướng tên chắc chắn
sẽ là niềm tự hào dài lâu cho cả dân tộc. Vậy sao lại thiếu tự tin đến mức hạ
“chỉ tiêu” trở thành một nhà văn best-seller? Trở thành một tác giả ăn khách là
một thành công không nhỏ nhưng rõ ràng điều này không thích hợp trong hoàn cảnh
văn chương Việt Nam hiện đại-một nền văn học thiếu vắng những tác gia và những
tác phẩm có sức sáng tạo lớn.
Có thể, những nhà văn lão thành đã từng trải đời, sự
mơ mộng chẳng còn bao nhiêu nên các cụ rất thực tế. Nhưng nhiều nhà văn trẻ vẫn
tiếp tục mơ mộng... Sự mơ mộng của những nhà văn trẻ không phải là điều viển
vông. Về cơ bản,
con người là sinh vật hữu hạn lúc nào cũng muốn đạt đến cái vô hạn. Và nghệ
thuật, đặc biệt alf văn chương là cách là nhiều người chọn để trở nên bất tử. Một thiên tài
văn chương ra đời thì yếu tố quyết định là tài năng của cá nhân anh ta. Nền
tảng giáo dục và văn hóa ở đất nước anh ta có thể còn nhiều bất cập, nhưng nếu
anh ta ý thức tự học, từ nghiền ngẫm và đặc biệt tự đi theo một lối viết riêng
thì hoàn toàn có thể vượt lên trên mặt bằng chung, tạo ra tác phẩm ngang tầm
thế giới.
Nhưng con người đó bao giờ xuất hiện? Có lẽ không thể
dự đoán mà hãy tin con người đó sẽ sớm xuất hiện trong sự bàng hoàng và cảm
động, như đúc kết của Nguyễn Trãi: “...Hào kiệt đời nào cũng có”. Tôi vẫn hi
vọng và trông đợi, và khát khao một ánh sao, một tia chớp. Cái giới hạn
"luật Thượng đế" vớ vẩn kia cũng do bấy lâu ta tự nghĩ ra, tự quàng
vào cổ mình thôi.
HOÀNG BÌNH PHƯƠNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét