Đó là lời nhận xét của nhà phê bình văn
học Pháp Jean-Yves Tadié về chủ nghĩa hình thức Nga. Trong thế kỷ XX, lý thuyết
văn học phát triển phong phú nhưng không có trường phái nào ghi dấu ấn sâu đậm
bởi tính cách tân như chủ nghĩa hình thức Nga. Đặc biệt, hầu hết người theo chủ
nghĩa hình thức đều ở tuổi 20 nhưng đã có suy tư thiên tài về các vấn đề lý
thuyết văn học.
Những nhà hình thức Nga là những sinh
viên văn học và ngôn ngữ học ban đầu chia thành hai nhóm: Nhóm Ngôn ngữ học Mát-xcơ-va
được thành lập năm 1915 với các thành viên nổi bật là Roman Jakobson
(1896-1982), Boris Tomashevsky (1890-1957)… Nhóm thứ hai là Hội nghiên cứu ngôn
ngữ thơ ca (OPOJAZ) được thành lập năm 1916 ở Saint Petersburg với các đại biểu
là Viktor Shklovsky (1893-1984), Yury Tynyanov (1894-1941), Boris Eikhenbaum
(1886-1959)…
Những nhà nghiên cứu trẻ tuổi kể trên đã
đảo ngược nhận thức lâu đời về văn học khi cho rằng một tác phẩm văn chương là
một chỉnh thể thống nhất, sinh động và có kết cấu. Điều này đặt ra vấn đề về
tính tự trị của văn chương theo cách hoàn toàn mới mẻ. Chủ nghĩa hình thức Nga
đã “chôn” phương pháp phê bình tiểu sử của Charles Augustin Sainte-Beuve
(1804-1869) vốn nghiên cứu tác phẩm thông qua tác giả do quan niệm người ra sao
thì văn cũng như vậy. Mạnh mẽ hơn, các nhà hình thức cho rằng: Văn chương không
phải là sản phẩm quyết định luận của chính trị, kinh tế, tôn giáo... Họ cũng
phê phán nốt quan điểm: Văn chương tư duy bằng hình ảnh của chủ nghĩa tượng trưng
Nga đương thời.
Văn chương không thể thoát ly hiện thực
nên trong tác phẩm ít nhiều có dấu vết của triết học, tâm lý học... Vì vậy, các
nhà hình thức Nga tuyên bố: Đối tượng nghiên cứu của khoa học văn chương không
phải là toàn bộ các yếu tố có trong tác phẩm văn chương mà chỉ là “tính văn
chương” (literariness), tức cái làm cho một tác phẩm nào đó thành tác phẩm văn
học. Và đó chính là hình thức.
Quan niệm truyền thống xem hình thức là
phương tiện-chỉ là phụ, nội dung mới là chính, là mục đích như câu nói: “Bình
cũ rượu mới”. Với các nhà hình thức Nga, hình thức không chỉ là phương tiện mà
còn là mục đích. Chính hình thức (form) sẽ tổ chức các chất liệu (material) từ đời
sống và ngôn từ hỗn độn trở thành nội dung (inhalt). Khi nội dung đã được hình
thức hóa tức đã mang tính nghệ thuật sẽ tạo ra một văn phẩm nghệ thuật. Mối
tương quan chặt chẽ giữa nội dung và hình thức được nhà triết học Đức G. W. F.
Hegel (1770-1831) khái quát qua câu nói nổi tiếng: “Nội dung chẳng là gì cả
ngoài sự hoán chuyển của hình thức vào nội dung, và hình thức chẳng là gì cả
ngoài sự hoán chuyển của nội dung vào hình thức”.
Với quan niệm trên, các nhà hình thức Nga
đã cấp nghĩa mới cho hình thức, và đưa
hình thức trở thành trung tâm của văn học. Nhưng làm thế nào mà hình thức lại tạo
ra tính văn chương? Các nhà hình thức Nga trả lời đó là nhờ thủ pháp (device). Thủ
pháp nghệ thuật (trong đó có văn học) là các cách thức biến những chất liệu chỉ
có giá trị tiêu dùng, được sử dụng một cách phổ biến trở thành hạt nhân thẩm mỹ
trong tác phẩm nghệ thuật. Ví dụ, những bức ảnh phong cảnh bình thường được nhà
văn Pháp André Breton (1896-1966) đưa vào trong tiểu thuyết “Nadja” (Bửu Ý
dịch, NXB Hội nhà văn, 2003) với mục đích thay các đoạn tả cảnh; vì với ông, miêu
tả là vô bổ.
Viktor Shklovsky trong bài viết nổi tiếng
“Nghệ thuật như là thủ pháp” (1917) đi sâu hơn khi cho rằng: Không phải bất cứ thủ
pháp nào cũng có giá trị mà chỉ có những thủ pháp “lạ hóa” (defamiliarization) mới
có tính nghệ thuật. Ông lý luận rằng, con người nói chung (trong đó gồm cả nhà
văn và người đọc) có xu hướng “tự động hóa” cảm thụ để tiết kiệm năng lượng nên
bằng lòng “chung thủy” với một số hình thức nhất định; từ đó, ông cho rằng: Thủ
pháp nghệ thuật phải tạo ra hình thức khó hơn, làm cho sự cảm thụ trở nên khó
hơn và dài hơn. Ông đưa ra kết luận nổi tiếng: “Nghệ thuật là sự cảm nhận cách
làm ra sự vật, còn cái được làm ra trong nghệ thuật thì không quan trọng”. Nhận
định này thực sự táo bạo vì nó không coi trọng ý nghĩa có trong tác phẩm; đi
ngược lại mục đích của tất cả các kiểu nghiên cứu theo khuynh hướng đạo đức,
chính trị, xã hội, tâm lý học và phân tâm học.
Vì văn học là nghệ thuật ngôn từ nên các
thủ pháp “lạ hóa” ngôn ngữ được quan tâm hơn cả. Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu
văn học là phân tích sự khác biệt trong ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ hàng
ngày; phát hiện thủ pháp “lạ hóa” độc sáng gọi là chủ âm (the dominant)-tức là
yếu tố chủ đạo. Chủ âm vốn là khái niệm mượn từ âm nhạc nay để chỉ yếu tố nào
chủ đạo trong một thể loại, thậm chí cả một nền văn học. Chẳng hạn, yếu tố chủ
đạo trong thơ Việt Nam
trước thời kỳ Đổi mới là sự hài hòa âm thanh, sử dụng vần lưng và vần chân; 20
năm trở lại đây, chủ âm thơ Việt là hình thức tự do, ít chuộng tính nhạc.
Dù có nhiều đột phá trong lý thuyết nhưng
chủ nghĩa hình thức Nga cũng đã có một số nhận định chưa đúng đắn. Chẳng hạn,
do quá đề cao thủ pháp nên các nhà hình thức cho rằng: Nghệ sĩ chỉ cần hiểu rõ
các thủ pháp là có ngay “chìa khóa vạn năng” để tạo dựng tác phẩm nghệ thuật.
Điều này đã biến nghệ sĩ không khác người thợ thủ công làm theo “mẫu”. Chính vì
thế những khiếm khuyết của chủ nghĩa hình thức Nga đã được các phương pháp khác
như xã hội học, phân tâm học… bổ sung.
Chủ nghĩa hình thức Nga chỉ tồn tại
khoảng 20 năm nhưng cũng đủ gây ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của các
trường phái sau này đặc biệt là chủ nghĩa cấu trúc. Những đại diện hoặc những
người chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hình thức Nga như: Roman Jakobson, Mikhail
Bakhtin (1895-1975), Vladimir Propp (1895-1970)… vẫn tiếp tục phát triển những
nền tảng lý thuyết đã đạt được để trở thành những người “khổng lồ” trong khoa
học xã hội và nhân văn thế kỷ XX.
HÀM ĐAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét