Mới
đây, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam phối hợp với Văn phòng UNESCO tại Hà Nội
đã triển khai dự án “Phát triển cơ chế tài chính và khuôn khổ pháp lý mới cho
công nghiệp văn hóa (CNVH) tại Việt Nam” thuộc chương trình “Hỗ trợ chuyên môn
nhằm củng cố hệ thống quản lý nhà nước về văn hóa ở các nước đang phát triển”
do UNESCO và Liên minh Châu Âu hợp tác thực hiện. Dự án này này có tham vọng
bước đầu đề ra những giải pháp để thúc đẩy nền CNVH Việt Nam phát triển.
Việt
Nam chưa hình thành CNVH
Khái niệm CNVH và các lĩnh vực CNVH chưa thống
nhất một định nghĩa duy nhất. Tuy nhiên, hầu hết các định nghĩa đều nhấn mạnh
CNVH là quá trình sản xuất, tái sản xuất và truyền bá các dịch vụ văn hóa được
tạo ra bằng phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa. Một nền
CNVH thực sự là phải để tạo ra việc làm và lợi nhuận. Theo quan điểm mới nhất,
CNVH được xác định bao gồm các lĩnh vực chủ chốt là: Truyền thông, thiết kế,
thời trang, sản phẩm tương tác, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, phim ảnh và
nghệ thuật thị giác. Tất cả đều nhấn mạnh hai yếu tố là công nghiệp và sáng
tạo.
Dựa vào các đặc điểm của CNVH nói trên,
các chuyên gia đánh giá: Việt Nam
chưa có nền công nghiệp văn hóa. Các hoạt động văn hóa ở Việt Nam còn nhỏ lẻ, chưa hiệu quả, chủ
yếu sống bằng bao cấp của nhà nước. Hệ thống sản xuất phân phối các sản phẩm
văn hóa chủ yếu vẫn do các doanh nghiệp của nhà nước đảm nhiệm, sự tham gia của
khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ còn hạn chế. Việc đầu tư ngân sách
cho hoạt động văn hóa nhìn chung còn thấp so với các ngành khác, chỉ chiếm
khoảng 0,3% GDP; đồng thời, đóng góp của hoạt động văn hóa trong cơ cấu sản
phẩm trong nước cũng rất hạn chế. Trong khi đó, CNVH đã trở thành ngành trụ cột
trong nhiều nền kinh tế. Chẳng hạn, ở châu Âu, ngành công nghiệp này tạo ra
khoảng 3% GDP (tương đương 500 tỷ Euro/năm) và giải quyết việc làm cho khoảng 6
triệu người.
Thực tế cho thấy, tiềm năng cho ngành
CNVH ở Việt Nam không hề thua kém quốc gia nào trong khu vực do nước ta có thị
trường tiêu thụ các sản phẩm văn hóa, dân số trẻ có khả năng sáng tạo, trình độ
truyền thông hỗ trợ CNVH cũng dần nâng cao, áp lực thuế tương đối thấp.... Tuy
nhiên, đa số người dân, các doanh nghiệp lẫn các nhà quản lý lại không được
hiểu một cách đầy đủ về CNVH; từ đó, chưa mạnh dạn để khai thác và làm lợi cho
đất nước.
PGS, TS Lương Hồng Quang (Phó Viện trưởng
Viện VHNT Việt Nam) cho
rằng: Các lĩnh vực trong CNVH đã xuất hiện ở Việt Nam từ chục năm trước nhưng chúng
ta lại chưa có được chiến lược tổng thể để phát triển. Thậm chí, một số người
đồng nhất CNVH với… thương mại hóa văn hóa nghệ thuật. Lấy ví dụ, tổng lợi
nhuận khai thác từ chú mèo máy Đô-rê-mon là 2 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, bản thân
Đô-rê-mon là sản phẩm từ trí tuệ họa sĩ, quảng bá hiệu quả do truyền thông ở
Nhật phát triển... Chắc chắn sẽ không có hiện tượng thần kỳ Đô-rê-mon nếu họa
sĩ không đam mê sáng tạo và cũng không biết quảng bá mà chỉ chăm chăm đuổi theo
số lượng hoặc nghĩ ra các bộ truyện rẻ tiền, độc hại.
Các nghệ sĩ Việt Nam thực sự
chưa quen sáng tạo những sản phẩm văn hóa hiện đại. Bản thân những đơn vị có
chức năng sản xuất các sản phẩm văn hóa như: Nhà xuất bản, công ty truyền thông,
công ty thiết kế... lại có thói quen mua bản quyền các sản phẩm văn hóa nước
ngoài rồi tìm cách “Việt hóa”. Các làm này ở giai đoạn đầu xây dựng CNVH có thể
chấp nhận được vì bắt chước là cũng là một cách học hỏi. Tuy nhiên, nếu cứ duy
trì cách thức “ăn xổi ở thì” này thì CNVH Việt Nam sẽ bị kìm hãm nghiêm trọng.
Cho nên để CNVH Việt Nam phát triển nhanh, đúng hướng và
bền vững trước tiên cần phải thay đổi nhận thức của các bên liên quan về CNVH.
Và đó là một trong những mục tiêu mà chương trình “Hỗ trợ chuyên môn nhằm củng
cố hệ thống quản lý nhà nước về văn hóa ở các nước đang phát triển” hướng đến
cho tất cả các nước được hỗ trợ, tỏng đó có Việt Nam.
Tập
trung, chuyên sâu các hoạt động sáng tạo văn hóa
Sau khi khảo sát về thực trạng sinh hoạt
văn hóa ở các đô thị, các chuyên gia UNESCO cho rằng: Hiện tại không có một cơ
chế tài chính có hiệu quả và khung pháp lý thích hợp trong hoạt động tài trợ để
hỗ trợ cho ngành CNVH. Giải quyết hai vấn đề cơ bản nói trên mới có thể nghĩ
đến một ngành CNVH Việt Nam
đích thực vừa sáng tạo mà cũng năng động.
Chuyên gia UNESCO Tom Fleming đề xuất: Các
cơ quan chức năng của Việt Nam
cần kết nối với các đối tác từ công lập cho đến tư nhân và xã hội dân sự để xây
dựng chiến lược phát triển cho CNVH bằng những bước đi ngắn hạn đến dài hạn. Và
phục vụ cho chiến lược đó là những dự án nền tảng. Nhà nước cần tiên phong đầu
tư cho các ngành CNVH mà Việt Nam
có lợi thế phát triển chẳng hạn như điện ảnh. Doanh thu bán vé phim ở Việt Nam
hiện nay tăng gần gấp 3 lần so với 10 năm trước khoảng hơn 30 triệu USD với 3,5
triệu khán giả. Nhưng doanh số ấn tượng này chủ yếu lại từ phim nước ngoài. Nếu
nhà nước biết khai thác nhân lực, hỗ trợ trang thiết bị, đầu tư cho các kịch
bản phim có chất lượng, bắt tay với các hãng tư nhân có thực lực thì may ra mới
có nền điện ảnh chuyên nghiệp “siêu lợi nhuận”. Điều này không có nghĩa nhà
nước quay trở lại thời kỳ bao cấp kinh phí mà chỉ đóng vai trò hỗ trợ gián
tiếp. Nếu việc hỗ trợ đi vào thực hiện có nghĩa cơ chế tài chính sẽ chuyển từ
cơ chế “xin-cho” vốn kém hiệu quả trong việc xin tài trợ cho các ngành CNVH
sang mô hình “đầu tư”.
Ý kiến khác cho rằng, Việt Nam
cần sớm xây dựng một siêu vùng văn hóa hay thành phố sáng tạo theo hướng tập
trung, chuyên sâu. Thành phố sáng tạo này có thể hiểu như những đặc khu phát
triển CNVH, là những siêu vùng dành riêng cho nghệ thuật và nghề thủ công
truyền thống. Các đơn vị kinh doanh ở gần nhau sẽ thuận tiện cho nguồn cung,
nhân lực, đầu ra; chính sách kinh tế, động viên về thuế, vốn vì thế cũng sẽ tập
trung. Chuyên gia UNESCO William Codjo cho rằng: Thử nghiệm thành phố sáng tạo
trước hết ở TP Hồ Chí Minh vì đây là một thành phố năng động, tiếp đó có thể
xây dựng ở Hà Nội hoặc Đà Nẵng. Trên thực tế, mô hình này đã được áp dụng ở một
số vùng như Thượng Hải và khu nghệ thuật 798 ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Châu Âu
cũng đã có một số vùng thành công như khu vực sáng tạo thời trang ở phía Bắc
của I-ta-li-a, chùm sáng tạo phía tây thủ đô London (Anh)...
Có thể những kinh nghiệm và lý thuyết phát triển CNVH của các nước phát triển
có thể không phù hợp với điều kiện một nước đang phát triển như Việt Nam.
Tuy nhiên, yêu cầu cấp bách trong việc xây dựng nền CNVH ở Việt Nam
cần phải được trả lời ngay bằng những hành động thiết thực, quyết liệt. Muộn
còn hơn không! Bởi, còn gì tốt hơn khi có một nền văn hóa đã đậm đà bản sắc dân
tộc nay còn dồi dào khả năng sáng tạo; và quan trọng hơn có thể đem lại lợi ích
kinh tế cho đầt nước.
HÀM ĐAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét