Trong một cuộc gặp mặt
những người viết văn trẻ, một nhà văn kiêm nhà báo đã phỏng vấn các đồng nghiệp
một câu hỏi: “Anh/chị có đọc văn chương Việt không?”. Kết quả có thể khiến nhiều
người “sốc” khi 80% trả lời “rất ít đọc” và 20% thẳng thừng “hoàn toàn
không đọc”.
Hiện tượng trên tưởng là
lạ, nhưng nếu theo dõi kỹ đời sống văn chương mấy năm qua thì đây là điều tất yếu.
Văn học nước ngoài sau thời gian ở tình trạng “có gì in nấy”, nay đã chọn lọc hơn.
Các tác phẩm của những nhà văn hàng đầu thế giới như: Italo Calvino, Mario
Vargas Llosa, Milan Kundera, Jean-Marie Gustav Le Clézio, Philip Roth, Orhan
Pamuk, Haruki Murakami... đã dịch sang tiếng Việt một cách nghiêm túc; ngoài
ra, các tác phẩm đoạt các giải thưởng uy tín như: Giải Goncourt, giải Fémina, giải
Pulitzer, giải Man Booker, giải thưởng Viện hàn lâm Pháp... cũng nhanh chóng được
dịch sang tiếng Việt sau khi được vinh danh. Nếu tác phẩm văn chương được so
sánh như “món ăn tinh thần”, thì khi số lượng và chất lượng văn chương nước
ngoài đi lên, hiển nhiên các nhà văn Việt Nam khó cưỡng với “món ăn ngoại”.
Một trong những nguyên
nhân khác khiến nhà văn Việt không đoái hoài đến văn chương nước nhà vì văn chương
Việt Nam
ít có tác phẩm hay để các nhà văn đọc và tự nghiền ngẫm cho sáng tác của bản
thân. Những tác phẩm ít ỏi có chất lượng lại bị vùi lấp trong bạt ngàn những
tác phẩm thường thường bậc trung, nên “chìm” đi nhanh chóng. Đơn cử, tiểu thuyết
“Và khi tro bụi” (NXB Trẻ, 2006) của Đoàn Minh Phượng được đánh giá là một tác phẩm
đỉnh cao vài chục năm mới xuất hiện, tác phẩm này đã được trao giải thưởng Hội
Nhà văn Việt Nam 2007; thế nhưng không gây được tiếng vang do không được quảng
bá tốt. “Tiếp sức” cho tình trạng văn chương Việt bị lép vế là sự lệch lạc trong
phê bình văn học. Rất ít các nhà phê bình nghiêm túc đọc tác phẩm văn học Việt Nam đương
đại nên không hướng dẫn cho người đọc (trong đó có các nhà văn) tìm các tác phẩm
đáng đọc.
Về thực chất, nhà văn đọc
sách gì cũng tốt, còn hơn là kiểu nhà văn lười đọc tác phẩm người khác, luôn tự
tin ở năng khiếu trời ban vốn chóng hết. Tuy nhiên, nếu nhà văn Việt mà chỉ đọc
văn chương nước ngoài, vô hình trung đánh mất mối liên lạc với đời sống văn chương
trong nước, không biết vị trí tác phẩm của chính mình đang ở đâu. Ví dụ, có nhà
thơ ghi lại những ý tưởng thoáng qua trong tâm trí thành một thứ thơ “vụt hiện”,
anh ta cứ tưởng thơ mình là mới, mà không ngờ vài chục năm trước, có nhà thơ Việt
đã làm vài bài thơ theo thi pháp nói trên.
Thêm vào đó, bản thân xã
hội và tâm lý con người Việt Nam do nhiều yếu tố không giống các nước phương
Tây đã đành, mà còn không hoàn toàn giống với các nước “đồng văn, đồng chủng” Á
châu. Vì vậy, để nhìn nhận đúng thân phận con người Việt Nam theo nhiều
tầng là: Sinh lý, tâm lý, tâm linh..., thì dù đọc văn học nước ngoài nhiều cũng
không thể là giải pháp tối ưu. Cái cốt yếu vẫn là nhà văn tự tìm hiểu và suy tư
về những đề tài ám ảnh có mối quan hệ sâu xa với số phận con người nói chung và
dân tộc nói riêng.
Lợi ích của văn học nước
ngoài có chăng chính là các kỹ thuật viết, sự đổi mới ở các hình thức tác phẩm.
Lâu nay, văn chương Việt Nam quá chú trọng đến vấn đề “viết cái gì”- một câu hỏi
thường dành cho báo chí-mà ít quan tâm đến vấn đề không kém phần quan trọng là
“viết như thế nào”; khiến tác phẩm văn chương rơi vào tình trạng cũ mòn. Nhưng để
đổi mới các yếu tố hình thức không phải bắt chước nguyên xi là xong, mà điều quan
trọng, sự đổi mới là một nhu cầu tự thân. Mặt khác, mỗi một hình thức mới không
phải từ trên trời rơi xuống, mà là một quá trình thoát thai hoặc điều chỉnh từ
các hình thức cũ; do vậy, chưa hiểu sâu sắc lịch sử hình thức thì khó có thể vận
dụng một cách nhuần nhuyễn.
Với văn học Việt, việc
tiếp thu tinh hoa văn chương nước ngoài là điều cực kỳ cần thiết nhưng phải
trên một tinh thần phản biện, có vậy mới mong sáng tạo ra tác phẩm thực sự có
ích cho văn chương, cho xã hội.
HOÀNG BÌNH PHƯƠNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét