Giới nghiên cứu văn học đều xem nhà văn
Pháp Marcel Proust (1871-1922), nhà văn Ai-len James Joyce (1882-1941) và nhà văn
Séc Franz Kafka (1883-1924) là “tam vị” thiên tài cách tân văn xuôi thế giới
trong thế kỷ XX. Marcel Proust và James Joyce thường chỉ được một số ít người đọc
yêu thích do lối viết của hai ông quá khó đọc; ngược lại, các tác phẩm của
Franz Kafka rất dễ đọc và dễ hiểu.
F. Kafka là người gốc Do thái sinh ra tại
TP Pra-ha (thời bấy giờ thuộc Đế quốc Áo-Hung) trong một gia đình thượng lưu.
F. Kafka thông thạo tiếng Séc nhưng ông chỉ viết văn bằng tiếng Đức nên nhiều
người vẫn xem ông là “vị vua được ngầm tôn vinh của văn xuôi Đức”, dù Cộng hòa
Séc hiện nay xem ông là đại văn hào của đất nước và đặt một giải thưởng văn chương
danh giá nhất mang tên Franz Kafka.
F. Kafka bẩm sinh cực kì thông minh, hơn
20 tuổi đã đỗ tiến sĩ luật nhưng ông chọn làm công chức bình thường để có thời
gian viết văn. Sự nhập cuộc của Franz Kafka vào sinh hoạt văn chương cũng hạn chế,
thậm chí trước khi chết vì bệnh lao ông còn nhờ người bạn thân Max Brod đốt hết
các bản thảo. Thật may, Max Brod đã không theo lời dặn dò; nhờ đó, người đọc
sau này mới khám phá một thiên tài văn chương nhạy cảm đến mức bệnh hoạn.
Những công trình về tiểu sử F. Kafka thường
nhấn mạnh đến hai yếu tố ảnh hưởng đến sự nghiệp của ông là nguồn gốc Do
thái-dân tộc tha hương và chấn thương tâm lý thủa bé do sống cùng người cha hà
khắc. Quả thật, đọc các tác phẩm của Kafka, dễ dàng nhận thấy những ẩn dụ bắt đầu
từ hai yếu tố nói trên. Chẳng hạn, nhân viên đo đạc K.trong tiểu thuyết “Lâu đài”
(Trương Đăng Dung dịch, NXB Văn học, 1998) được mời đến lâu đài để làm việc nhưng
anh không thể vào được lâu đài như một đứa bé bị bỏ rơi, bị ngầm trừng phạt vô
cớ. Ngay cả các tên nhân vật như K., Josef K., Samsa (biến âm Kafka) cũng mang
tính quy chiếu đến bi kịch cá nhân của F. Kafka.
F. Kafka khiến người ta kinh ngạc vì dường
như ông tiên đoán được tương lai. Trong tiểu thuyết “Vụ án” (Phùng Văn Tửu dịch,
NXB Văn hóa Thông tin, 2002), vào một buổi sáng, hai người mặc đồ đen đến nhà
Josef K. tuyên bố anh ta có tội mà không hề giải thích và gần 1 năm sau giết Josef
K. một cách thản nhiên. Cốt truyện này dường như tiên đoán được sự kết án vô cớ
và giết hại thường dân vô tội của Đức quốc xã sau này. Thật ra, F. Kafka không
có tài tiên tri mà chẳng qua ông nhìn thấu được sự tan rã các mối liên kết cuộc
sống xã hội tiền hiện đại. Ông nhận ra xã hội hiện đại sẽ trở nên vô tình do kỹ
thuật hoá và quan liêu hoá.
Tất nhiên, F. Kafka là một nhà văn nên
ông thể hiện các thông điệp thông qua hình tượng và hình ảnh chứ không bằng
khái niệm, các mô hình nghiên cứu như nhà khoa học nhân văn. Để diễn đạt thế giới
hiện đại vô tình, ông sáng tạo ra tình trạng con người lạc vào mê cung bị chi
phối bởi thiết chế đầy quyền lực và bí ẩn thông qua hình tượng lâu tài, tòa
án... Nhờ sự trừu tượng hóa nhân vật (nhân vật bị mất danh tính, tiểu sử chỉ còn
lại tên gọi là ký hiệu như K.) và xóa nhòa tính cụ thể không gian và thời gian
(không biết câu chuyện xảy ra thời điểm nào, ở địa danh nào cụ thể) nên các tác
phẩm của F. Kafka có tính phổ quát cao, mang tính điển hình hơn hẳn chủ nghĩa
hiện thực đang thống trị văn chương đương thời.
Vị thế độc nhất vô nhị của F. Kafka trong
văn chương được định danh vì ông được xem là nhà văn đầu tiên sử dụng tính phi
lý là đối tượng nhận thức khách quan ẩn đằng sau đời sống bề ngoài hợp lý. Cuộc
cách mạng văn chương của Kafka còn thông qua lối viết đặc biệt thường được gọi
là “lối viết độ không” đầy dửng dưng, khách quan đến mức lạnh lùng vô cùng thích
hợp với nội dung về cái phi lý.
Bề ngoài truyện của Kafka có vẻ hoàn toàn
bình thường thậm chí nếu đọc lướt có thể xem là nhạt nhẽo do ông vẫn giữ toàn bộ
cấu trúc truyền thống của giao tiếp ngôn ngữ với tính mạch lạc và logic cú pháp
nhưng ông đã đưa vào tính phi logic, tính rời rạc và phi lý của nội dung. Hiệu quả
đặc biệt lối viết kiểu F. Kafka là tất cả đều rõ ràng, không có gì khó hiểu
ngoài một biến cố thường ở đầu truyện. Ví dụ, trong truyện vừa kinh điển “Hóa
thân” (Tuyển tập Franz Kafka, NXB Hội Nhà văn, 2003), ngay câu đầu tiên là một
sự cố biến dạng: “Một buổi sáng tỉnh giấc băn khoăn, Gregor Samsa nằm trên giường
thấy mình biến thành một con côn trùng khổng lồ”. Điều lạ lùng nằm ở điểm dù
trong hình hài con bọ nhưng tâm tính G. Samsa vẫn là con người và anh ta dần
thích nghi với hình hài con bọ như chưa hề có sự cố hóa thân. Khác với motif người
hóa thành động vật trong truyện cổ tích (người hóa thành động vật sau đó lại
thành người như truyện “Tấm Cám” của Việt Nam), con bọ-người G. Samsa chỉ có thể
có kết cục là cái chết để giải thoát do không thể trở lại thành người, nghĩa là
cái phi lý biến thành cái bình thường hàng ngày. Và như vậy, F. Kafka cũng phần
nào ngầm phê phán sự tha hóa bản tính tốt đẹp của con người dưới tác động của
hoàn cảnh. Sự phi logic và sự phi lý bắt đầu khi con người tỉnh giấc, đó được
xem là “chìa khóa” để hiểu kỹ xảo thiên tài đơn giản đến không ngờ của F.
Kafka.
Những tư tưởng và thủ pháp độc đáo của F. Kafka ảnh hưởng lớn đến hầu hết các
nhà văn trong thế kỷ XX và cả ở các loại hình nghệ thuật khác sử dụng yếu tố
huyền thoại và huyễn tưởng. Vì vậy, thực ra chiều kích F. Kafka vượt khỏi phạm
vi văn chương để ông là một trong những người mở đường cho nghệ thuật hiện đại.
HÀM ĐAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét