Thứ Năm, 23 tháng 4, 2009

MỖI NGƯỜI CÓ CÁCH YÊU NƯỚC RIÊNG



(Tranh "Sự ra đời của chữ Quốc ngữ - Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh" của Nguyễn Đình Đăng)
Vượt qua mục đích ban đầu là bộ phim tài liệu độc lập của gia tộc, Mạn đàm về “người man di hiện đại” của đạo diễn Trần Văn Thủy đã đã dựng lại chân dung về một người “khổng lồ” văn hóa đầu thế kỷ XX: học giả Nguyễn Văn Vĩnh.
Hiếm có lần nào phòng chiếu phim của Trung tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội (L’Espace) lại có cảnh người chen nhau đứng xem bộ phim tài liệu 4 tập kéo dài 215 phút. Không một ai bỏ về giữa chừng và kết thúc bộ phim là những tràng pháo tay không dứt dành cho câu nói của đạo diễn Trần Văn Thủy: “Trên bàn thờ của dân tộc ngoài những anh hùng liệt sĩ nên có chỗ cho những người làm văn hóa”.

Photobucket

Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936)

CUỘC ĐỜI NHƯ TIỂU THUYẾT

Cuộc đời học giả Nguyễn Văn Vĩnh khiến nhiều người xem phim có cảm giác như đang theo dõi cuộc đời của một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết.
Sinh năm 1882 ở Hà Nội trong một gia đình nghèo. Năm 11 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh đã thi đỗ thông ngôn sau 3 năm học mót nhờ làm tiểu đồng… kéo quạt. Nhưng vì quá nhỏ tuổi không thể cho làm quan được nên ông học tiếp 2 năm nữa. Lần này, Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu và chính thức làm phiên dịch khắp miền Bắc. Nguyễn Văn Vĩnh không đọc một cuốn sách nào trên trường lớp nhưng lại đọc tất cả những sách rơi vào tay mình khi lăn lộn vào đời. Trong vòng 2 tháng, ông có thể dịch được tiếng Hoa và tiếng Anh. Ông mất hơn 2 năm để tự học xong chương trình phổ thông của Pháp (mua sách từ thủy thủ Pháp).
Khả năng làm việc của ông thì kinh người. Nhà văn Vũ Bằng trong cuốn hồi ký Bốn mười năm nói láo đã kể lại cách làm việc của cụ Nguyễn Văn Vĩnh: “…viết luôn một lúc một bài xã thuyết cho Annam Nouveau, thảo một thư cho Toàn quyền Pháp đưa xuống dưới nhà đánh máy luôn, dịch miệng “Têlêmac phiêu lưu kí” cho Đông Lĩnh Dương Phượng Dực ngồi ám tả, trong khi chính ông lại quay sang nói chuyện với ông Tụng về thống sứ Pháp…”
Dù là được người Pháp đào tạo và định lợi dụng ảnh hưởng nhưng trong con người Nguyễn Văn Vĩnh luôn có ý thức độc lập dân tộc cao. Chính vì thế người Pháp đã bỏ rơi ông và dùng sức ép của ngân hàng để tịch thu gia sản khiến Nguyễn Văn Vĩnh phải sang Lào tìm vàng. Ông mất đột ngột trên một con thuyền độc mộc trên sông Si – băng – ghi (tỉnh Shê – phôn, Lào) vào ngày 1/ 5 / 1936 “để lại một công lao không có lỗi lầm và lịch sử không có vết nhơ” (điếu văn của ông M. Delmas – chủ tịch hội nhân quyền chi hội HN).

ÔNG TỔ CỦA NHIỀU NGHỀ

Tầm vóc văn hóa của ông trước hết ở chỗ ông là ông tổ của nhiều nghề. Năm 1906, sau chuyến đi Pháp 6 tháng, ông quyết định thôi làm công chức mở nhà in Trung Bắc và chủ bút tờ Đăng Cổ Tùng Báo – tờ báo bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên. Ông còn làm chủ bút các báo tiếng Pháp Notre Journal (Tờ báo của chúng ta), Notre Revue (Tạp chí của chúng ta), l’Annam nouveau (An Nam mới). Ông là người đầu tiên chủ trương dịch tác phẩm Pháp nổi tiếng sang Quốc ngữ và ngược lại.
Ngoài ra, ông còn đi tiên phong một số chuyện “nhỏ” khác:
Ngày chủ nhật 25/ 4/ 1920 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, là ngày người VN diễn lần đầu tiên một vở kịch. Đó là một vở hài kịch Molière: “Trưởng giả học làm sang” do Nguyễn Văn Vĩnh dịch và thủ vai chính kiêm đạo diễn.
Cụ Nguyễn Văn Vĩnh hợp tác với Công ty Chiếu bóng Đông Dương dựng “kịch bóng” (cách gọi điện ảnh thời ấy) đầu tiên của Việt Nam tên là Kim Vân Kiều. Tác phẩm của Nguyễn Du được đưa lên màn bạc với diễn viên là các đào kép tuồng của ban Quảng Lạc, Hà Nội trình chiếu 4 giờ rưỡi ngày 14/ 3/ 1924.
Cụ Vĩnh còn là người đầu tiên cắt tóc búi củ hành và vận đồ Âu phục trước khi sang Pháp năm 1906. Ngoài việc sở hữu một ô tô, cụ còn sở hữu một chiếc mô tô với quan điểm: “Nhà báo là phải đi mô tô”.

Không chỉ đi tiên phong mà di sản văn hóa mà học giả Nguyễn Văn Vĩnh để lại vẫn có giá trị đến ngày nay. Các “dịch phẩm” của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn được trẻ con ở thế kỷ 21 tìm mua do Việt hóa tối đa như: thơ ngụ ngôn La Fontaine, Ba chàng ngụ lâm pháo thủ của A. Dumas, kịch Molière, Miếng da lừa của H. de Balzac, Guylive phiêu lưu kí của Swift…

Ông đã đóng góp rất nhiều trong việc thống nhất tiếng Việt và làm phong phú tiếng Việt lên một trình độ cao hơn. Thời cụ Vĩnh, người miền Bắc hay nhầm giữa s và x hay ch và tr… mà người Trung Kì và Nam Kì lại phân biệt được. Nhưng người Nam và Trung lại không phân biệt được Can và Cang, Cắt và Cách hoặc Ing và In… Họ cũng không phát âm được V nên bị nhầm thành D hoặc Gi (ví dụ cho lỗi phát âm này là tên ban đầu của khu công nghiệp Dung Quất là Vu Quất). Cụ dựa tên các tờ báo tiếng Việt, đáng kể nhất là tờ Đông dương Tạp chí (1913) khuyến khích dùng chữ Quốc Ngữ.

“CỦA CAESAR HÃY TRẢ LẠI CHO CAESAR”

Bộ phim tài liệu được xây dựng xoay quanh những lời “mạn đàm” của các nhà nghiên cứu sử học Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Nguyễn Đình Đầu, Chương Thâu; các nhà báo Trần Hòa Bình, Yên Ba.
Các nhà sử học đều đánh giá công lao lớn nhất của Nguyễn Văn Vĩnh là truyền bá chữ Quốc ngữ. Không chỉ tạo dựng cho dân tộc một ngôn ngữ chuẩn, chữ Quốc ngữ còn giúp xóa nhanh nạn mù chữ vì chỉ cần 3 tháng là có thể biết chữ trong khi chữ Hán và Nôm phải mất 10 năm. Qua đó, công lao gây dựng nền văn hóa độc lập của cụ Vĩnh đã được làm rõ qua câu nói: “Nước Nam sau này hay dở là ở chữ Quốc ngữ”.
Xoay quanh lời mạn đàm của các nhà nghiên cứu là những lời tự minh oan của con cháu cụ Vĩnh ở VN khi cụ bị hiểu nhầm là Việt gian, bồi bút. Sự hiểu nhầm là do cụ chủ trương thuyết trực trị. Chủ trương này về bản chất không khác với chủ trương “Pháp Việt hợp tác” của cụ Phan Chu Trinh. Nghĩa là miền Bắc và miền Trung nên đặt dưới sự cai trị trực tiếp như ở Nam Kì. Ước mong của cụ Vĩnh là khi dân ta được cai trị như những người Pháp sẽ trở nên văn minh hơn và việc đòi lại độc lập bằng đối thoại dễ được chấp nhận, qua đó tránh đổ máu vô ích. Trong khi vừa đấu tranh đòi trực trị, cụ vừa làm việc truyên truyền nâng cao dân trí bằng báo chí, in ấn. Và muốn làm được việc đó, cụ Vĩnh đã nhẫn nhục dựa vào người Pháp.
Đạo diễn bộ phim Trần Văn Thủy sau buổi trình chiếu phát biểu: “Mỗi người có cách yêu nước riêng. Tôi làm bộ phim không chỉ để đánh giá lại công lao của của cụ mà còn để người nước ta tự hào có những con người tầm vóc danh nhân như cụ Vĩnh. Một người dám tự nhận mình là “người man di hiện đại”, nghĩa là đang dũng cảm nhìn mình bằng một con mắt ở bên ngoài để phê phán trình độ văn minh của dân tộc mình”.

HÀM ĐAN