Diễn ra từ ngày 2 đến 6-2 tại TP Hạ Long (Quảng Ninh) và Hà
Nội, Festival Thơ châu Á-Thái Bình Dương lần thứ nhất (gọi tắt là Festival) có
chủ đề “Thơ ca vì một châu Á hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển” đã quy
tụ hơn 70 nhà thơ đến từ 24 nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Qua
Festival, các nhà thơ đã đồng thuận cho rằng, vai trò của thơ ca hiện nay là sứ
giả văn hóa giữa các quốc gia trong khu vực.
Gắn kết các nền thơ ca châu Á
Hình thức Festival thơ
không còn xa lạ trên thế giới nhưng với một đất nước đang phát triển như Việt Nam thì tổ chức
Festival thơ là một nỗ lực vượt bậc khi phải lo vấn đề kinh phí cho đến những
việc khác như nội dung hoạt động, dịch các bài thơ và tham luận, vẽ biểu trưng…
Rất may, những hoạt động tại Vịnh Hạ Long-kỳ quan thiên nhiên mới của thế
giới, đã được UBND tỉnh Quảng Ninh tạo mọi điều kiện tốt nhất. Nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam phụ trách đối ngoại cho biết:
“Lý do chọn Hạ Long là nơi tổ chức Festival bởi bản thân vẻ đẹp của Vịnh Hạ
Long cũng quá… nên thơ. Mặt khác, một hoạt động tôn vinh thơ được tổ chức tại
một địa danh vừa trở thành kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới là thích hợp”.
Khi chúng tôi hỏi câu
hỏi “hai trong một” rằng: “Trước khi đến tham dự Festival, ông (bà) đã biết đến
nền thơ ca Việt Nam
chưa? Lý do nào để ông (bà) nhận lời tham dự Festival?”, thì nhận được câu
trả lời khá đồng nhất là các nhà thơ không biết nhiều về thơ ca Việt Nam. Nhà thơ
Mamatha Giriraj Sagar (Ấn Độ) chia sẻ: “Việc thơ ca Việt Nam không được biết nhiều không đồng nghĩa Việt Nam ít nhà thơ
tài năng, vấn đề có thể nằm ở khâu dịch thuật chưa tốt. Tiếng tăm của thơ ca Ấn
Độ hiện thời cũng tương tự như vậy”. Về lý do các nhà thơ đến Festival tại Việt
Nam
chủ yếu muốn tìm hiểu các nền thơ ca trong khu vực và muốn biết tiếng nói của
các nhà thơ về những vấn đề về thơ ca và thời cuộc.
Mục đích Festival mà Hội
Nhà văn Việt Nam đề ra ban đầu là nơi giao lưu giữa các nhà thơ khu vực châu
Á-Thái Bình Dương, nhưng không ngờ rằng Festival đã trở thành một hoạt động
ngoại giao văn hóa khi đã giới thiệu hình ảnh Việt Nam là đất nước của thơ ca.
Qua trao đổi của chúng tôi, các nhà thơ đều ấn tượng bởi tình yêu thơ của người
Việt Nam. Nhà thơ, dịch giả Chúc Ngưỡng Tu (Trung Quốc) nhận xét: “Việt Nam là đất nước nên thơ, con người Việt Nam luôn yêu
thích thơ. Trong tiếng Việt, thơ không những là một danh từ, mà còn chuyển
nghĩa sang một tính từ, nó chỉ một cái gì đó rất đẹp”. Nhà thơ Sue Wootton (Niu
Di-lân) tỏ vẻ ngạc nhiên: “Tôi rất ít thấy đất nước nào thành kính với thơ như
Việt Nam,
nào là lễ kéo cờ thơ, lễ dâng hương tưởng niệm Hoàng đế-thi sĩ Lê Thánh Tông và
màn thả thơ… Tất cả đều rất tuyệt vời!”.
Các nhà thơ cũng tỏ ra
hào hứng khi vào sáng nay, Chủ nhật ngày 5-2, được tham dự khai mạc Ngày
Thơ Việt Nam lần thứ X và được đọc thơ tại sân thơ quốc tế trong Văn Miếu
- Quốc Tử Giám. Họ cho rằng, thơ ca ngày nay rất ít người đọc vì vậy đây là cơ
hội hiếm hoi giới thiệu thơ ca của cá nhân và đất nước mình với người đọc tại
một đất nước khác.
Nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều cho biết, tiếp nối Festival lần thứ nhất, Hội Nhà văn Việt Nam cố gắng tổ
chức Festival lần tới có thể 3 năm nữa để biến Festival thơ ở Việt Nam trở
thành một Festival thơ có uy tín trong khu vực và sẽ thu hút nhiều nhà thơ lớn
tham dự.
Nhận định vai trò của thơ ca đương đại
Một trong những hoạt
động tạo nên chất lượng học thuật của Festival là Hội thảo “Thơ ca vì một châu
Á-Thái Bình Dương hòa bình, đoàn kết, hợp tác, hữu nghị và phát triển”. Ai cũng
biết rằng, văn học-nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng chỉ gián tiếp giúp
cuộc sống con người trở nên nhân bản hơn. Nhưng vai trò của thơ ca đương đại
với đời sống tinh thần khu vực trong thời buổi toàn cầu hóa như thế nào thì
chưa được làm rõ; chính vì vậy, hầu hết các tham luận đều muốn bàn luận chủ đề
kể trên.
Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ
tịch Hội Nhà văn Việt Nam
đã có bản tham luận khái quát, được các nhà thơ quốc tế đánh giá cao về bản
chất thơ ca khi cho rằng: “Thiền định dạy chúng ta phép vệ sinh tinh thần trong
trạng thái tĩnh. Thơ ca dạy ta phép nuôi dưỡng tâm hồn trong tư thế động. Đó là
vẻ đẹp của tư tưởng nhập thế Phương Đông. Và hiệu ứng xã hội mà nó mong đạt tới
là đồng điệu và gắn kết. Về điều này, thơ ca không cần phải cạnh tranh với tôn
giáo, bởi chính thơ ca đã là một tôn giáo. Tôn giáo của niềm tôn vinh con
người. Vì thế, còn con người thì còn thơ ca”.
Nhà thơ, nhà báo Nikolai
Preiaslov (Nga) lưu ý các đồng nghiệp về khía cạnh thơ ca giữ lại phần tinh túy
truyền thống văn hóa mỗi dân tộc trong xu hướng toàn cầu hóa. Ông không
tin vào các biện pháp hành chính như cấm quảng bá các tác phẩm độc hại sẽ có
tác dụng tích cực mà cần phải sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật có chất lượng
để lưu giữ văn hóa truyền thống ở từng dân tộc. Và ông so sánh thơ ca như một
“loại thuốc giải độc cực mạnh” vì thơ ca là bảo tồn tâm hồn của chính nhân dân,
truyền thống sinh hoạt và đạo lý của cha ông.
Đặt ra câu hỏi và tự trả
lời về sứ mạng của thơ ca ngày nay, nhà thơ Rida Liamsi (In-đô-nê-xi-a) tin
rằng: Nếu thực sự thành tâm, thơ ca có thể giúp cuộc sống tốt đẹp hơn, chan
chứa tình bạn, nhân ái hơn giữa tình trạng của thế giới nhiều sự thay đổi trong
giá trị cuộc sống. Thơ ca là vai trò đối thoại giữa các nền văn hóa.
Đồng tình với nhà thơ
đến từ “đất nước vạn đảo”, nữ thi sĩ Nhật Bản Moritaka Tsukagoshi trong tham
luận “Vượt biên giới bằng thơ ca” lấy ví dụ các nhà thơ Việt Nam đã chia sẻ
an ủi người dân Nhật Bản sau trận động đất tháng 3-2011. Bà cho rằng, đây là
khoảnh khắc thơ ca đi qua biên giới hữu hình và vô hình giữa các dân tộc, các
nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau.
Một chủ đề nổi bật được
một số tham luận đề cập đến là việc quảng bá thơ. Nhà thơ, dịch giả Chúc Ngưỡng
Tu (Trung Quốc) phản đối một số người cho rằng thơ không thể dịch được. Ông cho
rằng, tiêu chuẩn dịch thơ là đúng và hay như thế mới quảng bá thơ hiệu quả. Nhà
thơ Sukrita Kuman (Ấn Độ) cũng cho rằng: Thơ có thể dịch được nhưng những bản
dịch tiếng Anh-ngôn ngữ phổ thông nhất thế giới, về thơ châu Á rất ít chất
lượng. Vì vậy, những hoạt động như Festival thơ tại Việt Nam lần này rất
quan trọng và cần thiết cho thơ ca châu Á, cho thân thiện giữa các quốc gia./.
HÀM ĐAN