Thứ Năm, 30 tháng 4, 2009

LAN MAN VỀ ÔNG TRỊNH...


Tặng em H_C ở San Diego!!!

Không thể nhớ nổi lần đầu tiên nghe nhạc ông Trịnh là khi nào? Có thể từ lúc còn nhỏ đi nhà trẻ đã được nghe một bản... tình ca vang lên. Hẳn nhiên nhỏ như thế thì kh hiểu nổi bài hát đó đang hát lên điều j? Và cũng kh biết nốt tác giả bài hát. Cho đến vài năm sau đi học tiểu học nghe bài Em là bông hồng nhỏ mà bọn trẻ con từ hát nhại: "Em sẽ là đầu trâu mặt ngựa...". Điều tệ hại là hầu hết trẻ em ở nước này nghe bài hát thường quên béng nhạc sĩ còn em thì nhớ tên là Trịnh Công Sơn. Cái tên ấy chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Nó không nghe hoành tráng như cái tên ông nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hỏa Tiễn hay khó nghe như anh Trạch Văn Đoành của ông Trần Hữu Tri (tức là ông Nam Cao hic hic tên thật của ông nghe hay hơn. He he). Cho đến khi gặp liên tiếp mấy sự cố thành thử tự nhốt mình trong nhà, nhạc Trịnh là thứ duy nhất nghe. Nghe nhiều đến nỗi 5 năm nay không nghe nữa. Vì sao đến đoạn sau sẽ rõ.

Kỷ niệm đáng nhớ nhất chắc hẳn là hồi thi đại học. Vào tháng 8, sau khi đã đỗ Khoa tâm lí học rồi dự thi chuyên ngành phê bình văn học ở một trường khác. Ngành này thi khó vãi. Đầu tiên phải gửi 5 tác phẩm đã đăng báo. Trong năm tác phẩm đó, có bài Ca từ trong bài hát Trịnh Công Sơn đăng trên trang Văn học thứ 6 của báo Quân đội nhân dân. Giờ không còn có văn bản nữa. So sad!!! Sau khi qua "vòng gửi xe đạp" mới được thi tiếp theo là vòng 2 và 3 đó thi văn, sử (nội dung thì vẫn trong SGK nhưng câu hỏi cực "mở": Kiểu như theo em vì sao Pháp thua ở ĐBP? Còn nhớ một câu viết trong bài thi môn Sử ấy: "Tại vì bọn Pháp nó văn minh quá còn chúng ta thì hơi lạc hậu chưa được khai hóa. Cái anh văn minh quá thì không chịu được khổ với bẩn thỉu còn anh lạc hậu thì không biết gì về súng ống nên không biết sợ dũng cảm tiến lên. Thế thôi" He he). Vòng 4 thi năng khiếu, cho một bài thơ hãy viết một bài phê bình về bài thơ đó. Chỉ nhớ đó là một bài lục bát dở ơi là dở thế là 4 trang giấy thi được ken dày toàn chữ chê bai. Vòng 5 là vòng vấn đáp, tức là có 2 bố GS hẳn hoi (mà giỏi thật chứ kh phải gà sống đâu nhé!) cho toàn câu hỏi hóc xương gà. Mở đầu bố ấy hỏi: "Trước khi đi thi em làm gì?". Trả lời ngay không cần nghĩ: "Em là bụi đời". Ô hô. Nói chung trả lời ngon mọi câu. Chính giờ không nhớ hai bố căn vặn j về câu: "loài sâu ngủ quên trong tóc chiều" trong bài Dấu chân địa đàng nữa. Chỉ nhớ mang máng cái gì liên quan đến tượng trưng với siêu thực ý. He he

Hình như lan man quá nhiều. Ờ mà nhan đề bài này có chữ lan man mà. Đã rồi thì kh nên dừng.

Chuyện đời ông Sơn quá nhiều người đã nói vì quá nhiều chuyện. Cả thật lẫn giả cầy. Nhưng điều chán nhất là ông bị hóa thánh. Người như cụ Hồ bị hóa thánh đã đành đằng này một ông nhạc sĩ cũng được hóa thành "tiểu thánh". Rõ là một dân tộc nông dân thích sùng bái thần tượng. Ông cũng có vô số chuyện chẳng mấy hay ho. Nhưng phải công nhận ông có phong độ của một trí thức "không chủ nghĩa nhưng cần chi". Tài năng thì miễn bàn rồi thậm chí còn là thiên tài.

Lại phải quay về cái "máng lợn". Cái khởi thủy của vấn đề: "Tại sao nhạc ông Sơn lại nhiều người mê đến vậy?" Chịu! Mỗi người có cách lí giải khác nhau. Nhưng nếu ai tinh ý sẽ nhận ra ông Sơn không thể viết được những những bài ca hào hùng, sử thi mang tính thời sự (Chuyện này không lạ, chẳng ai bao hết mọi sân). Sở trường của ông viết rất hay những bài về bản chất con người nói chung, mang tính tộc loài. Và vì thế ông chạm đến những vấn đề muôn thủa con người.

Tất nhiên còn là ở ca từ nữa. Người ta đã phân tích chán chê rồi. Nói nữa kẻo bị new Cố Hồng chửi cho: "Biết rồi khổ lắm nói mãi!!!". Nhưng thử đọc lại thì ca từ mang tính triết lí đó không hẳn như chủ trương của ông Trịnh là "một thứ triết lí dễ hiểu". Thực ra nó rất khó, đến nỗi chính ông Trịnh lại tự phát ngôn đầy mẫu thuẫn: "Phải là người có học thức mới hiểu được nhạc tôi". Ta so sánh hơi xa (so sánh nào mà chả khập khiễng) ca từ của Trịnh với văn của Sartre ta thấy chúng khó hiểu như nhau. Song ca từ của nhạc Trịnh gần với thơ có vần (lưng và chân) cho nên nghe rất xuôi, lại nữa có nhạc theo kèm. Sự khó hiểu bị trôi đi trong những giai điệu nhạc du dương, nhừa nhựa. Bất cứ ai lần đầu nghe Trịnh chắc chắn không bao giờ hiểu được hết tất cả các từ trong đó, các ẩn ý theo nghĩa sát với nghĩa đen. Họ chỉ hiểu các từ gây ra phản ứng thẩm mỹ tức thì mà điều lạ lùng là chúng lại khá nhiều. Vì thế nghe nhạc Trịnh nhiều mới hiểu được mà khi đã hiểu thì ngấm và nghiện. Nhiều người mới gặp phải sự cố j đấy hoặc chưa từng trải ngấm quá nên tâm trạng lúc nào cũng buồn buồn theo đến nỗi trông như mới đi "đập đá" về. He he Tốt nhất thỉnh thoảng nghe thui! Thế nhé. Nice day^^

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2009

NỮ SINH VÀ VĂN HỌC ĐÔ THỊ


Có người đã chê văn học Việt Nam chưa phản ánh được nhịp sống đô thị. Không hẳn vậy, thân phận nữ sinh đô thị Việt Nam trong văn học chí ít đã phản ánh nhịp sống ấy, hoặc ngược lại. Có thể thấy xã hội đô thị Việt Nam mỗi thời kỳ qua thân phận các thế hệ nữ sinh trên các trang văn.

“MỒ GIAI NHÂN”

Ở Việt Nam có một sự tình cờ là tầng lớp nữ sinh ra đời cùng lúc với đô thị thuộc địa. Sự chuyển tiếp từ xã hội phong kiến bình lặng sang xã hội công nghiệp sôi động - nữ sinh có lẽ là lớp người bị hụt hẫng nhất. Ở trường, họ tiếp xúc với văn hóa Pháp đậm tinh thần tự do. Nhưng về gia đình, họ phải chịu đựng gia phong cổ hủ, "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Số nữ sinh tự tử (chủ yếu vì tình) ở hồ Tây (Hà Nội) theo thống kê của báo chí thuộc địa là 139 người. Vì thế nơi này được ví như "Mồ giai nhân".

Các nhà văn thời ấy sớm nhận ra xung đột nội tâm của nữ sinh và nhanh nhạy phản ánh vào trong văn học theo ba hướng. Thứ nhất, theo tinh thần lãng mạn, tiêu biểu với các tiểu thuyết luận đề của nhóm Tự lực Văn đoàn. Tiếp theo là hài hước hóa hình tượng nữ sinh, như nhân vật Tuyết trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Và cuối cùng, vẫn là "ông vua phóng sự Bắc Kỳ" Vũ Trọng Phụng với cuốn tiểu thuyết Làm đĩ theo tinh thần hiện thực phê phán, viết về thân phận cô nữ sinh tên Huyền.

Nữ sinh ở đô thị đòi chứng tỏ nữ quyền trong khi dư luận xung quanh lại mang tâm thức phong kiến. Đô thị thuộc địa không tạo cho họ nhiều cơ hội. Môi trường này còn giăng nhiều cạm bẫy khi các quan hệ đan xen mới - cũ phức tạp khiến nội tâm các nữ sinh bị giằng xé. Tâm lý chung của nữ sinh trong văn học giai đoạn này là tâm lý phụ thuộc. Nhân vật nào an phận theo truyền thống đạo đức, tuân theo sự sắp xếp của gia đình thì cuộc đời của họ toàn "màu hồng". Ngược lại, số phận bất hạnh đang chờ sẵn. Nhân vật Huyền trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng vốn là nữ sinh con nhà gia giáo. Trót "ăn trái cấm" với anh họ, sau đó bị chồng lẫn bạn chồng lừa gạt. Không có con đường nào khác, Huyền đành trở thành gái giang hồ.Nữ sinh trước Cách mạng tháng Tám đã được văn học quan tâm thỏa đáng. Bản thân họ là hình tượng nhân vật mới mẻ trong một môi trường mới, chứa đựng nhiều mâu thuẫn để văn chương có thể lấy làm chất liệu.

Thời kỳ đất nước bị chia cắt, ở miền Nam nữ sinh vẫn thường xuyên có mặt trong các tác phẩm, nhưng cách phản ánh vẫn chỉ là vệt kéo dài của văn học tiền chiến. Ở miền Bắc, hình tượng nữ sinh không còn được văn học chú ý bằng các nhân vật công, nông, binh. Thời điểm này, đô thị miền Bắc thời chiến không phát triển thêm bao nhiêu. Thỉnh thoảng, nhân vật nữ sinh xuất hiện nhưng lẫn vào bao nhân vật khác cùng say mê lý tưởng, hoạt động hăng say trong các đoàn thể. Nếu hành động gắn liền với những suy nghĩ trái chiều với đám đông, lập tức họ bị gạt ra lề cuộc sống - như số phận bất hạnh của cô sinh viên Phương trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh.
Dẫu sao, các nhân vật nữ sinh trong văn học đã đồng hành cùng với đô thị.

NỮ SINH ĐƯƠNG ĐẠI ĐANG... LỘT XÁC

Truyện ngắn Mưa của nhà văn Lê Minh Khuê lấy bối cảnh thập niên 1980, kể chuyện một nữ sinh trường múa bị người yêu bỏ rơi. Kết thúc, tinh thần cô suy sụp, ngồi ngắm mưa bên cửa sổ. "Bóng ma" của tâm lý phụ thuộc và hình tượng nữ sinh tiền chiến vẫn lởn vởn trong văn học thời kỳ đầu đổi mới.

Vài năm sau, hình ảnh những nữ sinh yếu đuối biến mất. Thay vào đó là những nhân vật vượt qua được những vấp ngã đầu đời. Người tình của Nhã bỏ đi để lại cô một đứa con. Cô gục ngã, nhưng gượng dậy, vẫn sống độc thân, trở thành một nữ doanh nhân thành đạt để kiêu hãnh với kẻ bạc tình. Câu chuyện trên nằm trong tiểu thuyết Cơ hội của Chúa của nhà văn Nguyễn Việt Hà viết về cuộc sống đô thị đầu những năm 1990.

Chỉ đến khi những công dân thế hệ 8X, 9X trưởng thành, nữ sinh mới thực sự lột xác. Đầu thế kỷ này, xã hội tiêu thụ và văn hóa đại chúng mới ngấm sâu vào cuộc sống ở đô thị. Đô thị trở thành một môi trường mở cho tất cả mọi người . Nữ sinh không phải học hành chăm chỉ cố đạt một chỗ ngồi trên giảng đường, hay mơ được làm việc trong một cơ quan Nhà nước, rồi lập gia đình như các thế hệ bà, mẹ của họ. Năng động, giao tiếp rộng, đam mê và có tài - những phẩm chất khiến nữ sinh đang ngồi trên ghế phổ thông có thể trở thành những vũ công nhạc Dance, DJ, đầu bếp, stylist, PR, trang điểm, nhiếp ảnh... - những nghề thu nhập có thể đến 5 - 7 triệu đồng/tháng. Nữ sinh đã có thể độc lập tạo dựng con đường sống.

Thêm một lần nữa, hình ảnh nữ sinh lại được văn học xem như một đối tượng mới cần phản ánh. Các cây bút trẻ đã vẽ được một lớp nữ sinh đây cá tính, ngầm ủng hộ lối sống hiện đại. Nhưng văn học không chỉ có tô hồng, một số tác phẩm cũng viết về những nữ sinh đi vào con đường hưởng thụ, để chứng tỏ cá tính theo cách tiêu cực. Đáng tiếc là những tác phẩm văn học mới chỉ "khai phá" đề tài bằng cách kể lại câu chuyện theo những hình thức đơn giản. Tâm lý bên trong con người nữ sinh đương đại mới chỉ được văn học chạm nhẹ, chưa đủ sức lay động độc giả khó tính ngày nay. Nếu so với các tác phẩm viết về nữ sinh sống trong đô thị như Rừng Na Uy, 69, Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường. . . của Nhật Bản hoặc các tiểu thuyết “Made in China” như: Yêu anh hơn cả tử thần, Sinh năm 1980, Xin lỗi em chỉ là con đĩ ... thì văn học Việt Nam ít thành tựu hơn.
Cuộc sống đô thị tốc độ nhanh, tâm lý nữ sinh đương đại không còn "buồn rớt" như thời đại đã qua. Họ đứng dậy và quên rất nhanh những đều không may, những mối tình "tàu nhanh" - hình thành tính cách mạnh mẽ trong cuộc sống cạnh tranh khắc nghiệt. Nhiều nhân vật nữ sinh đã sẵn sàng đánh đổi các giá trị được xem là chuẩn mực để có thể tồn tại được ở đô thị. Mặt trái kèm theo là sự vô cảm. Như lời của người em - cựu sinh viên ĐH sư phạm đang thất nghiệp thản nhiên nói với chị ruột: "Nếu tôi không đi làm điếm thì không thể thay đổi" (truyện ngắn Hạnh của Nguyễn Thị Minh Dậu). Liên hệ với lời khai lạnh lùng của cô sinh viên giết người tình đang xôn xao gần đây, thì văn học Việt Nam đã mang tính dự báo.

HÀM ĐAN

GS PHẠM ĐỨC DƯƠNG: “LÃNG PHÍ CỦA NGƯỜI VIỆT DO TRÌNH ĐỘ VĂN MINH THẤP KÉM”


Giáo sư Phạm Đức Dương sinh năm 1930 tại Hà Tĩnh. Lĩnh vực chuyên môn: ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ thực nghiệm; Đông Nam Á học. Ông là người xây dựng và là chuyên gia đầu ngành về Đông Nam Á học ở Việt Nam. Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Nam Á từ 1975 đến 1995. Tổng biên tập tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (1990 - 1995) và tạp chí Việt Nam – Đông Nam Á ngày nay (1995 - 2000).

Phóng viên (PV): Thưa GS, lãng phí ở nước ta nên nhìn từ góc độ nào?
GS Phạm Đức Dương: Đặc trưng của người Việt Nam là cư dân lúa nước sống ở đồng bằng. Người Việt là những tiểu nông. Từ đó, đẻ ra những ứng xử khác nhau. Bên cạnh mặt tích cực có nhiều mặt tiêu cực mà lãng phí là một trong những điểm tiêu cực nổi bật. Từ khi Đổi mới bước vào xã hội công nghiệp sự lãng phí lại bộc lộ nhiều hơn. Muốn tìm hiểu người Việt Nam và tính cách của họ trong đó có sự lãng phí theo tôi phải đi theo hướng này. Đồng thời cũng phải đứng trên tầm thời đại để thấy được lãng phí của người Việt.

PV: Thưa GS, ông có thể so sánh về sự lãng phí của người Việt hiện nay so với ngày xưa, giữa Việt Nam và các nước khác?

GS Phạm Đức Dương: Sự lãng phí đúng là đã có từ thời các cụ. Ngày xưa chỉ làm lúa một vụ nên phải khẩn trương “nhất thì, nhì thục” là vậy. Nhưng sau khi thu hoạch là xả hơi, vui chơi hội hè. Cho nên người Việt vừa chăm chỉ cần cù lao động hiếm có nhưng khoản ăn chơi, hội hè thì cũng không ai bằng.

Người Việt ngày thường ăn mặc rất tiết kiệm nhưng đến lễ hội, giỗ chạp là phung phí vô lối. Người Việt có bệnh sĩ, bốc đồng “con gà tức nhau tiếng gáy”, nhất quyết không được thua bè thua bạn. Giờ vật chất đã khá sự phung phí càng tăng nhất là chuyện thiết đãi ở đám cưới, hội nghị vì người Việt có tư duy “trọng khách”. Thức ăn thừa quá phí phạm. Người Đức ăn không hết mang về vì họ coi là sức lao động của họ. Ta chưa có thói quen đó.

Người Việt cũng không biết quý trọng thời gian. Thời gian nhàn rỗi không biết làm gì. Người Nga khi xếp hàng hay lên tàu điện đều mang theo sách. Họ đọc để thêm kiến thức vừa quên thời gian chờ đợi.

Sự lãng phí lớn nhất theo tôi đó là sự lãng phí trong xây dựng. Bước vào công nghiệp hóa xây dựng càng lớn. Dưới con mắt anh tiểu nông, tầm nhìn không xa, thiếu cơ bản sự lãng phí càng lớn hơn. Người Nhật học cho đến kiệt rồi từ đó mới sáng tạo. Người Việt học không đến đầu đến đũa, chỉ học cái gì cần thiết trước mắt. Đi vào đời sống hiện đại mà thiếu căn bản là rất nguy hiểm.

Thêm nữa nước ta chiến tranh, bao cấp kéo dài, cái không bình thường trở thành cái bình thường. Cái không bình thường chỉ có phá hoại.

PV: Thưa GS, vậy đâu là nguyên nhân căn bản dẫn đến sự lãng phí của người Việt?

GS Phạm Đức Dương:

Theo tôi đấy là trình độ văn minh trong con người Việt thấp kém chưa đáp ứng được cho một xã hội phát triển. Giáo dục chưa đào tạo được những con người văn minh biết tiết kiệm. Con người hiện đại cần phải được giáo dục cẩn thận. Theo tôi cần phải dạy cho lớp trẻ học làm một công dân văn minh hiểu được thế nào là lãng phí.

Quan trọng hơn cần tạo ra một thiết chế để mô hình “”Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ” vận hành có hiệu quả chứ không phải là khẩu hiệu suông. Có làm như vậy mới giải quyết được nhiều vướng mắc trong đó có sự lãng phí.

Xin cảm ơn GS Phạm Đức Dương!

HÀM ĐAN (thực hiện)

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2009

CỪU ĐEN - ITALO CALVINO


Ở một miền đất nọ, mọi người đều là kẻ trộm.

Về đêm mọi người đều rời khỏi nhà với chùm chìa khóa cùng chiếc đèn lồng được che chắn và đi ăn trộm nhà hàng xóm. Họ trở về lúc bình minh, mang theo nhiều tài sản, và thấy chính nhà họ cũng bị mất trộm.

Cho nên, mọi người sống rất hạnh phúc, không ai thấy thua thiệt gì, vì lẽ rằng từng người ăn trộm người khác và người khác lại ăn trộm người khác nữa, và cứ tiếp tục như thế đến khi kẻ trộm cuối cùng ăn trộm của kẻ đầu tiên. Chuyện buôn bán ở xứ đó chắc chắn là trò bịp bợm của kẻ mua và kẻ bán. Chính phủ là một tổ chức tội phạm ăn trộm của dân và dân chúng chỉ chăm chăm ăn trộm của chính phủ. Vì vậy, cuộc sống thật dễ chịu, chẳng ai giàu và chẳng ai nghèo.

Một ngày, không hiểu sao lại có một người đàn ông lương thiện đến chốn này. Đêm tới, thay cho việc ra đi vác theo bao bố và đèn lồng, anh ta ngồi ở nhà hút thuốc lá và đọc tiểu thuyết.

Những tên trộm đến, chúng thấy đèn sáng và không vào nhà.

Tình trạng này diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn: sau đó họ đành phải giải thích cho anh ta rằng ngay cả nếu anh muốn sống không làm việc thì cũng có lý do gì ngăn cản công việc người khác. Mỗi đêm, anh ở nhà thì y rằng hôm sau một gia đình nào đó chẳng có gì để ăn.
Người đàn ông lương thiện khó có thể phản đối lý lẽ trên. Anh ra đi vào đêm tối và sáng hôm sau quay về giống như họ, nhưng anh ta không ăn trộm. Anh ta vẫn lương thiện và bạn không thể làm gì để thay đổi căn tính đó. Anh ta đi cho đến tận cây cầu và nhìn làn nước trôi phía dưới. Khi anh ta trở về nhà anh thấy mình ta bị mất trộm.

Chưa đến một tuần lễ người đàn ông lương thiện chẳng còn một xu dính túi, anh ta chẳng có gì để ăn và nhà anh ta thì trống không. Nhưng đó không phải là vấn đề, vì lẽ rằng đó là lỗi của chính anh ta; không, vấn đề là lỗi của anh ta làm mọi sự đảo lộn. Bởi anh để cho những kẻ khác ăn trộm tất cả tài sản anh ta, mà anh ta lại không ăn trộm của bất cứ ai, nên luôn luôn có kẻ trở về lúc bình mình và thấy nhà mình còn nguyên vẹn: anh ta lẽ ra phải ăn trộm nhà ấy. Một thời gian sau, những kẻ không bị trộm thấy mình giàu có hơn kẻ khác và không muốn đi ăn trộm nữa. Tệ hơn, những kẻ đến nhà người đàn ông lương thiện để ăn trộm thấy nhà luôn luôn trống không, do đó họ nghèo đi.

Trong lúc đó, những kẻ giàu có lại có thói quen của người đàn ông lương thiện là đi đến cây cầu về đêm để ngắm dòng nước trôi bên dưới. Điều này càng làm tăng thêm sự rối loạn bởi nó khiến cho nhiều kẻ khác trở nên giàu có và nhiều kẻ khác trở nên nghèo đói.

Đến lúc này, người giàu thấy rằng nếu họ đi đến cầu vào mỗi đêm họ cũng dần trở thành nghèo đói. Và họ có ý muốn: “Hãy trả lương cho những người nghèo để họ đi ăn trộm cho mình”. Họ lập hợp đồng, tính mức lương cố định, tính phần trăm ăn chia: dĩ nhiên họ vẫn là những kẻ trộm, và họ vẫn muốn lừa gạt kẻ khác. Điều phải đến là người giàu càng giàu thêm và kẻ nghèo càng nghèo đi.

Một vài người giàu nứt đố đổ vách cho rằng họ không cần phải đi ăn trộm hoặc thuê kẻ khác ăn trộm để mình giàu hơn. Nhưng nếu họ dừng ăn trộm thì họ sẽ nghèo đi bởi những kẻ nghèo ăn trộm của họ. Vì vậy, họ trả lương cho những người nghèo nhất trong đám người nghèo giữ tài sản tránh bị bọn nghèo lấy trộm và từ đó tạo ra lực lượng công an và xây dựng nhà tù.

Chỉ trong vòng vài năm người đàn ông lương thiện xuất hiện, chẳng ai còn nhắc đến chuyện ăn trộm và mất trộm, mà nói đến người giàu và kẻ nghèo, nhưng họ vẫn còn là những kẻ trộm.

Chỉ một người lương thiện chính là đàn ông lúc đầu ấy, nhưng anh ta đã chết từ trước đó, vì đói.

Hàm Đan dịch từ tiếng Anh

NGƯỜI TIỂU NÔNG VÀ FAST-FOOD


Có một cách nghĩ bất di bất dịch khách hàng là thượng đế còn nhà sản xuất luôn lẽo đẽo chạy sau thị hiếu của người tiêu dùng. Ở Việt Nam lúc này có một thực tế khác – một xã hội đang chuyển mình sang nền văn minh công nghiệp, khách hàng nhiều khi không còn là thượng đế. Vai trò đó chuyển sang các nhà sản xuất biết điều khiển thị hiếu tiêu dùng và gián tiếp tham gia vào nền văn hóa đại chúng (pop).

NHỮNG CHUYỆN NHỎ NHẶT

Đầu năm 2009, cuốn sách nhỏ Những huyền thoại (Mythologies) của nhà nghiên cứu nổi tiếng Roland Barthes (1915 - 1980) được xuất bản bằng tiếng Việt. Cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1957, thời điểm nước Pháp cũng giống như nước ta bước vào xã hội tiêu thụ và văn hóa đại chúng. Đối tượng của cuốn sách nhắm đến hết sức “nhỏ nhặt” từ bột giặt, đồ nhựa, chiếc xe Citroen mới, khoai tây và bít tết, rượu vang… Tóm lại là những đồ vật ấy hiện diện xung quanh con người và chúng thuộc lĩnh vực đời sống hằng ngày. Ông khẳng định một sản phẩm thích hợp để tiêu dùng phải khoác lên mình thị hiếu của công chúng và phải dùng hệ thống truyền thông (thành tố không thể thiếu của văn hóa đại chúng) để điều khiển thị hiếu luôn dễ thay đổi. Chẳng hạn, với bột giặt phải tung quảng cáo để công chúng tin rằng xà phòng nhiều bọt giúp ngấm sâu tiêu diệt chất bẩn trong hình dạng sinh vật kỳ dị đang chạy trốn và quần áo trở nên sạch đến sáng bóng. Thêm vào đó là một Hội thảo quốc tế về bột giặt (tháng 9/ 1954 tại Pari) khẳng định bột giặt không hề làm hại da tay. Từ đó, bột giặt là thứ không thể thiếu với người nội trợ. Sẽ là thừa khi phải nhắc lại nửa thế kỷ sau, các sản phẩm bột giặt và nước tẩy uế có mặt ở thị trường Việt Nam đều lặp lại cách thức truyền thông nói trên không sai một ly. Song, bột giặt sẽ không là ví dụ hoàn hảo để chứng minh thị hiếu của người tiêu dùng có thể bị nhà sản xuất dẫn dắt.
Một ví dụ khác gần đây chứng minh nếu nhà sản xuất khôn ngoan lựa chọn được sản phẩm có thể ít nhiều biến đổi thói quen của người tiêu dùng. Vào khoảng đầu năm 2006, tập đoàn Tân Hiệp Phát tung ra thị trường trà xanh đóng trong chai. Các phương tiện truyền thông liên tục giới thiệu về một loại nước giải khát gần gũi với người Việt Nam vì được chiết xuất từ trà xanh nhưng độc đáo vì được đóng trong chai với những điều kiện sản xuất đặc biệt theo công nghệ Nhật Bản để giữ lại các chất bổ dưỡng, có lợi cho cơ thể. Ngay trên thân chai trà xanh có ghi “có hàm lượng chất chống oxy hóa EECG – giúp chống lão hóa, giảm stress, ngăn ngừa ung thư, tăng cường sức đề kháng và làm da đẹp”. Trà xanh không độ được truyền thông bơm lên thành thực phẩm chức năng tuy cũng thuộc nhóm nước giải khát. Lượng tiêu thụ trà xanh tăng 190 % cho dù về mặt giá cả trà xanh cao hơn khoảng 20% so với các loại nước giải khát đóng chai khác. Tuy nhiên, khách hàng chấp nhận mức chênh lệch này vì có lợi cho sức khoẻ và cả sự tiện lợi trong sử dụng. Không biết trong tương lai trà xanh không độ sẽ thay đổi cách uống trà của người Việt Nam hay không nhưng hiện tại người ta đã thấy khách hàng vào các quán giải khát đã thường xuyên lựa chọn trà xanh không độ thay cho các loại nước có ga khác.
Cách thức truyền thông lý tính luôn giống nhau bởi đều phải nhằm vào thị hiếu tiêu dùng luôn muốn có sản phẩm tốt nhất, rẻ nhất và an toàn nhất. Nhưng sẽ là sai lầm khi cho rằng thị hiếu người tiêu dùng Việt Nam sẽ hoàn toàn giống thị hiếu tiêu dùng xã hội Pháp được phản ánh trong cuốn Những huyền thoại. Xã hội Pháp điển hình cho xa hội tiêu thụ và văn hóa đại chúng phương Tây đã trải qua quá trình hàng trăm năm sản xuất công nghiệp tập trung và đô thị hóa cao độ hình thành một lối sống công nghiệp đặc thù còn xã hội Việt Nam bước vào xã hội tiêu thụ và văn hóa đại chúng lại từ một nền kinh tế nông nghiệp với tâm lý tiểu nông còn in đậm. Vì vậy, đằng sau vẻ bề ngoài tương đồng, chắc chắn thị hiếu người tiêu dùng Việt Nam phải có điểm khác biệt nào đó với người tiêu dùng phương Tây.

DÙNG THỨC ĂN NHANH HẾT… 2 GIỜ

Kết thúc năm 2008, hệ thống 61 nhà hàng tương hiệu KFC đã phục vụ gần 10 triệu thực khách (số liệu từ web: kfcvietnam.com.vn). Đó là một con số ấn tượng về doanh thu trong khi chiếc lược quảng cáo của nhãn hiệu này rất khiêm tốn. Nhãn hiệu KFC ít khi xuất hiện trên mặt báo và truyền hình thay vào đó người ta biết đến nhãn hiệu KFC chủ yếu bằng các tờ rơi và nhất là bằng… “truyền khẩu”.
Người Việt Nam đã biết đến thức ăn nhanh (fast-food) qua các ảnh phim, báo chí… trước khi KFC có mặt ở Việt Nam năm 1997. Hình ảnh những người nước ngoài ăn những miếng gà rán vàng đậm kèm với khoai tây chiên giòn tan đựng trong hộp giấy cotton bằng tay ở đường phố, sân vận động… khiến sự tò mò được thưởng thức thử thức ăn nhanh là điều dễ hiểu, nhất là trong nhóm dân số trẻ từ 16 đến 25 tuổi sống trong guồng quay đô thị hiện đại nơi thời gian là vàng.
Người này đồn với người kia, nhãn hiệu KFC nổi tiếng không cần quảng cáo vẫn phát triển chóng mặt. Lần lượt, các hãng thức ăn nhanh khác là Lotteria và BBQ tham gia vào thị trường thức ăn nhanh Việt Nam. Bản thân các nhãn hiệu luôn hướng khách hàng hòa vào không gian trẻ trung, sành điệu vào nội thất cửa hàng, phong cách thực khách phải tự phục vụ… Cho nên, nếu một thanh niên sống ở đô thị Việt Nam mà không biết đến thức ăn nhanh thì người đó sẽ phải xấu hổ bởi sự lạc hậu của mình. Cũng vì thế, nhiều người khẩu vị không hợp lắm với thức ăn nhanh nhưng vẫn tìm đến nơi ăn uống sành điệu ấy để hợp thời trong khi túi tiền lẫn thời gian không có nhiều. Và hình ảnh thực khách thưởng thức đồ ăn nhanh mất hai tiếng đồng hồ khi ngồi tán chuyện không phải là hiếm. Thức ăn nhanh nếu so sánh hơi khập khiễng với các đồ vật xa xỉ phẩm khác hình như đang thuộc về thế giới của “ra vẻ” chứ không phải của sử dụng. Đối tượng cần sử dụng thức ăn nhanh là công nhân viên chức những người luôn thiếu thời gian lại lựa chọn thức ăn “thuần Việt” bởi giá cả thức ăn nhanh vẫn đắt so với túi tiền của họ. Mặt khác, họ cũng có cảm giác sờ sợ tăng cân nếu thường xuyên sử dụng thức ăn nhanh.
Có người còn phê phán thức ăn nhanh là sản phẩm dành cho người… lười. Có lẽ không nên cực đoan như vậy. Cuộc sống ở đô thị và ở thời đại tri thức luôn diễn ra với tốc độ chóng mặt. Đồ ăn nhanh nói riêng và các sản phẩm thuộc về thời hiện đại sẽ phát triển và trở thành sản phẩm chủ đạo.
Câu chuyện về thức ăn nhanh ở Việt Nam và trò xanh không độ kể trên cho thấy vai trò của nhà sản xuất đã định hướng thị hiếu sâu xa hơn là lối sống của người tiêu dùng ra sao và cả những biến hóa trong tiêu thụ sản phẩm của những “thượng đế” thời pop.

HÀM ĐAN

ĐƯỜNG TẮT THÀNH SAO!


Truyền thông giúp nhiều bạn trẻ thành danh trong làng giải trí một cách nhanh chóng. Nhưng hệ lụy của con đường tắt này khiến những tài năng có thể tiến xa ngày một thưa vắng.
Gần chục năm trước, những ngôi sao ca nhạc hay điện ảnh thời thượng ít có cơ hội và cũng chưa có thói quen tự quảng cáo trên phương tiện truyền thông. Nay, không cần phải ra album, bộ phim mới mà họ chỉ cần phát ngôn shock: “Tôi mà xấu thì chẳng ai đẹp” cho đến một hành động bán đấu giá từ thiện lập tức được dư luận chú ý.

CHUYỆN TỐT, XẤU KHÔNG QUAN TRỌNG…

Môi trường văn hóa đại chúng dựa trên sự bùng nổ của truyền thông và quảng cáo. Qua đó kích thích con người tự quảng bá mình. Số lần bước lên sân khấu, màn ảnh được cả nước biết đến không nhiều. Để duy trì tên tuổi trong suốt 365 ngày không có con đường nào khác ngoài việc tự quảng bá mình. Việc tên tuổi được lăng xê khiến các sản phẩm giải trí (album, sô diễn, làm gương mặt đại diện….) cũng giống bao thứ hàng hóa khác có cơ hội được tiêu thụ đem về cát sê cao nhất; ngoài ra còn để cạnh tranh với các đồng nghiệp cùng “chí hướng”. Ngay đến văn chương, một lĩnh vực kiếm rất ít tiền và có tiếng “thiêng liêng” trước nay luôn lảng tránh quảng cáo thì giờ đây các nhà văn không ngần ngại hứa hẹn tác phẩm sẽ “viết rất thật về sex”, “tác phẩm này được tình yêu của tôi chắp cánh” hoặc tự dán nhãn “hậu hiện đại”...

Câu chuyện tự đánh bóng tên tuổi đang dần dần trở nên bình thường. Song điều không bình thường là ngày càng có nhiều 8X hoạt động dựa vào truyền thông nhiều hơn là tài năng nghệ thuật. Điển hình là hotgirl Thủy Top. Cô vốn là làm nghề stylish, nhờ những bộ ảnh sexy khoe vòng 1, cô nổi tiếng trong cộng đồng mạng. Chỉ trong một năm, từ thế giới ảo cô được mời làm diễn viên, đi hát, người mẫu, đại sứ game Thiên Long Bát Bộ. Điều kì lạ là sự nổi tiếng lại tỉ lệ nghịch với thành công nghệ thuật đích thực khi cô dừng bước ngay vòng loại Sao Mai Điểm Hẹn 2008. Thành công của Thủy Top là nhờ tốc độ truyền thông chóng mặt của internet và dùng ngôn ngữ cơ thể (body language) để quảng cáo bản thân. Và cộng thêm sự hâm mộ, tò mò của số đông cư dân mạng đã bị điều khiển thị hiếu. Điều đó chứng tỏ thói quen cách nghĩ truyền thống đã bắt đầu lung lay. Mặt tích cực của việc tự quảng bá hình ảnh cũng là ở đây. Nó góp phần kết nối cộng đồng đang bị đô thị hóa phân tán thành những cá nhân riêng rẽ và mở nhiều cơ hội trở thành thần tượng. Vì thế, chỉ cần một chút lợi thế về ngoại hình, tài lẻ nào đó cộng thêm công nghệ lăng xê thì chuyện xấu đều như chuyện tốt đẹp miễn là có chuyện để tạo dựng tên tuổi. Đó là đường tắt để bạn muốn trở thành sao từ một người vô danh.

CON DAO HAI LƯỠI

Với các nghệ sĩ đã thành danh, họ thấu hiểu hơn ai hết việc tự quảng bá hình ảnh đích thực là con dao hai lưỡi. Khác với người mới vào nghề, lúc này gìn giữ hình ảnh, duy trì sự nghiệp đỉnh cao mới quan trọng. Nam tài tử Mỹ Brad Pitt giờ đây xuất hiện trên truyền thông với hình ảnh ông bố mẫu mực của những đứa con ruột lẫn con nuôi thế chỗ hình ảnh hào hoa, đa tình thủa nào. Vì thế, Brad Pitt đã kiện tạp chí Vanity Fair đăng trên trang bìa bức ảnh anh mặc độc quần short và anh cũng từ chối tham gia đóng một số cảnh khỏa thân.

Ở Việt Nam, chưa có nghệ sĩ nào tự tạo scandal như Paris Hilton hay Lindsay Lohan ở trời Tây để nổi tiếng hơn. Việc làm đó không khác gì con dao hai lưỡi. Cùng là nạn nhân của các scandal sex nhưng khác với ca sĩ Nguyễn Hồng Nhung phải sang lập nghiệp ở bên Mỹ còn “Vàng Anh” Hoàng Thùy Linh đang trở quay lại làng giải trí với nhiều hoạt động có tiếng, mới nhất là đại diện webgame Linh Vương. Hình như cô đã nổi tiếng hơn trước khi xảy scandal.

Một số nghệ sĩ khác đang lăm le nối gót các đàn chị trên khi xuất hiện trên bìa đĩa với hình ảnh bán nude, tranh nhau đóng cảnh nóng trong phim, nam ca sĩ thì giả gái hoặc ăn mặc đồng bóng... Tất nhiên, không thể thiếu những phát ngôn mạnh mẽ thể hiện cá tính theo thái độ: tôi là tôi, kệ!!! Những việc làm trên chưa có luật nào quy định vì thế cơ quan quản lí chỉ còn vin vào một lí lẽ cuối cùng: ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục và cùng lắm là can thiệp vào một vài vụ việc quá lộ liễu như ca sĩ Quách Thành Danh khoe nội y. Nhưng vòng kim cô đó đang dần mất tác dụng khi đại bộ phận giới trẻ đều không phản ứng trước những hành động bị lên án là vô văn hóa, thậm chí nhiều bình luận trên các diễn đàn đều tỏ vẻ… khoái!

Nhưng có thực tế đáng buồn trong làng giải trí Việt là mọi biểu hiện bên ngoài của các nghệ sĩ đang ngày càng Tây hóa nhưng chưa có một tài năng giải trí nào vượt ra ngoài biên giới Việt. Chỉ trong vài năm gần đây, làng showbiz xứ kim chi đã tạo nên “làn sóng Hàn Quốc” khuynh đảo cả châu Á với tên tuổi của BoA, H.O.T, Rain, Lee Hyori, Bea Yong Joon… Tất cứ ai trong những cái tên này đều có thể tham gia tốt nhiều lĩnh vực. Họ đích thực là những nghệ sĩ đa năng mà Việt Nam còn thiếu. Tất nhiên họ cũng dựa vào truyền thông nhưng nếu không có tài năng làm sao họ có thể chinh phục đến tận nước Mỹ như Rain nguời lọt vào "Top 100 người có tầm ảnh hưởng nhất thế giới" năm 2006. và được chọn vào danh sách “Những người đẹp nhất thế giới” của tạp chí People năm 2007.

Bài học của người Hàn rất rõ ràng. Muốn hoạt động giải trí cần dựa vào truyền thông nhưng nếu không có tài năng thực sự mà chỉ cậy nhờ vài trò gây shock (cái gì nhiều đều nhàm) thì cùng lắm là “anh hùng nhất khoảnh” mà thôi.

HÀM ĐAN

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2009

THẾ HỆ BEAT – HUYỀN THOẠI VĂN HÓA MỸ


Thế hệ Beat (Beat generation) là một thuật ngữ vừa chỉ một nhóm nhà văn đồng thời cũng để nhắc đến một trào lưu văn hóa xã hội của nước Mỹ nổi lên từ cuối thập niên 50 đến những 60 của thế kỷ trước. Báo chí thường dùng thuật ngữ “thế hệ Beat” giới thiệu một nhóm nhỏ các nhà văn và cũng là những người bạn gồm: Allen Ginsberg [1], Jack Kerouac [2] và William S. Burroughs [3]. Các thành viên của thế hệ Beat nhanh chóng phát triển danh tiếng như những người theo chủ nghĩa khoái lạc mới. Họ trứ danh bởi không tuân theo một nguyên tắc nào và óc sáng tạo tự phát tức thời. Ngày nay, khi nhìn lại không ai có thể phủ nhận được “Beat” là một trào lưu văn học quan trọng của nước Mỹ: các tác phẩm thơ đã hình thành nên một trường phái thơ thể nghiệm phản truyền thống lớn nhất sau chiến tranh thế giới thứ 2 còn các tác phẩm văn xuôi của các thành viên Beat chứa trong mình nhiều mầm mống nghệ thuật của chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism). Vượt ra ngoài phạm vi văn học, “Beat” dần phát triển trở thành một trào lưu xã hội phản kháng lại những ước lệ của xã hội công nghiệp - kỹ thuật với hoài bão sống trần trụi.

“Beat” xuất phát từ tiếng lóng từ tầng lớp dưới đáy của xã hội, nghiện hút và trộm vặt ở New York và được J. Kerouac sử dụng vào năm 1948. J. Kerouac đã liên tưởng đến “thế hệ mất mát” (Lost generation)
[4] ở Mỹ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất. Thuật từ đến từ cuộc nói chuyện với tiểu thuyết gia John Clellon Holmes cùng với bản tuyên ngôn trên tạp chí New York Time: “Đây là thế hệ Beat”. “Beat” nghĩa rộng chỉ sự mệt mỏi, nhưng theo cách sử dụng của Kerouac nó bao gồm ý nghĩa rộng của nghịch lý của “upbeat” (yêu đời, lạc quan) và “beatific” (ban phúc) và sự liên kết trong âm nhạc bắt đầu từ “on the beat” (nhịp đập dồn dập). Sau này họ còn được gọi là “beatniks” do Herbert Eugene Caen (1916 - 1997) đặt ra trên tờ San Francisco Chronicle ngày 2/ 4/ 1958 có vẻ giống cách chơi chữ như cách gọi vệ tinh Sputnik của Liên Xô.

Câu hỏi đầu tiên và cũng khá rắc rối là những ai được coi là thành viên của thế hệ Beat? “Thủ lĩnh” A. Ginsberg khẳng định tất cả chỉ có ba người bao gồm Allen Ginsberg, Jack Kerouac và William S. Burroughs
song Gregory Corso lại cho rằng: “Ba người bạn không thể làm nên một thế hệ”.

Ở đây có thể hiểu hai cách: thứ nhất là nhóm nhỏ những nhà văn là những người bạn lẫn người tình (A. Ginsberg là người đồng tính còn Peter Orlovsky,
J. Kerouac, Neal Cassady là người lưỡng tính) - những những nhà văn đầu tiên thuộc thế hệ các nhà văn Beat là: J. Kerouac, William S. Burroughs, A. Ginsberg, Neal Cassady, Gregory Corso, John Clellon Holmes, Alan Ansen, và Herbert Huncke. Nếu theo cách hiểu trên, sự chuyển động như Phục Hưng Sanfrancico và trường phái thơ Black Moutain được coi là những sự chuyển động riêng rẽ.

Cách hiểu thứ hai rộng lớn bao gồm các nhà văn đã nắm bắt được tình trạng nổi bật cuối những năm 1950 đầu những năm 1960, họ đã đưa ra nhiều đề tài, tư tưởng, khái niệm giống nhau (chẳng hạn sự hiến dâng tự nguyện, kết cấu mở, tính chủ quan…) đều được bao gồm trong đó. Các nhà văn đủ tiêu chí thuộc thế hệ Beat có thể phủ nhận rằng họ đã từng là các nhà văn Beat, căn cứ vào giới hạn của định nghĩa này mà báo chí đã cho rằng như vậy. Chẳng hạn họ có thể nói rằng họ đã là bạn của A. Ginsberg và J.Kerouac, không phải là môn đồ. Tình bạn hay ít nhất là một sự liên kết nào đó với Ginsberg hoặc Kerouac có thể là một dấu hiệu để một nhà văn thuộc vào cái định nghĩa đại khái về thế hệ các nhà văn Beat. Danh sách này có thể bao gồm:

Những nhân vật chính và những nhà văn đầu tiên thuộc thế hệ các nhà văn Beat là:
J. Kerouac, William S. Burroughs, A. Ginsberg, Neal Cassady, Gregory Corso, John Clellon Holmes, Alan Ansen, và Herbert Huncke;
Bao gồm cả những nhà thơ nòng cốt của thế hệ Beat đã bắt gặp ở trào lưu phục hưng San Francisco như là:
Gary Snyder, Philip Whalen, Lew Welch, Lawrence Ferlinghetti, Harold Norse, Kirby Doyle, Michael McClure;
Các nhà thơ được liên kết trong nhóm
Black Mountain College như là: Robert Creeley, Denise Levertov, Robert Duncan (mặc dù R. Duncan là một trong những người lên tiếng sớm nhất chỉ trích “nhãn hiệu” Beat Generation)
Nhóm các nhà thơ “Trường New York” như là
Frank O'Hara, Kenneth Koch;
Các nhà thơ đôi khi được gọi là “làn sóng thứ hai” của thế hệ Beat như
LeRoi Jones/Amiri Baraka, Diane DiPrima, Anne Waldman
Nhiều nhà văn nữ không được đánh giá đúng mức trước đó cũng đang được chú ý:
Joanne Kyger, Kaye McDonough, Harriet Sohmers Zwerling, Janine Pommy Vega, Elise Cowen;

Một vài nhà văn nhiều tuổi hơn đã liên kết khá chặt chẽ với thế hệ Beat mặc dù tiếng tăm của họ đã vững chắc từ rất sớm, điều đó rất khó có thể gọi họ là cùng một thế hệ với thế hệ Beat. Họ bao gồm
Kenneth Rexroth, nhân vật chính đã thu hút trào lưu phục hưng San Francisco, và Charles Olson – người cố vấn giàu kinh nghiệm của nhóm thơ Black Moutain và là tác giả của bài luận có sức thuyết phục cao “Thơ dự phóng” (Projective Verse) (1950) và nhiều nhà văn khác đã đích thân nghiên cứu cùng với William Carlos Williams [5] hoặc tìm kiếm thông tin coi William như một thần tượng. Điều đó cho thấy thế hệ các nhà văn Beat thường được xem là con đẻ của Williams.

Donald Allen, tác giả của cuốn The New American Poetry (Thơ mới ở Mỹ) cho rằng: “Trường phái San Francisco hòa nhập thành một nhóm mới - các nhà thơ “Beat”, xuất hiện vào những năm 50. Hầu hết những nhà thơ quan trọng của nhóm Beat (Beatniks) từ Bờ Đông chuyển đến San Francisco. Chính ở California này họ đạt được thành công ban đầu trên cả nước ở California.” Quả thật, các tác phẩm của các nhà văn Beat chỉ gây được tiếng vang sau khi đã chuyển đến San Francisco. Tiêu biểu là tác phẩm Howl (Hú) của A. Ginsberg. Bài thơ dài này lần đầu tiên được đọc do chính tác giả đã tạo nên cơn sốt cuồng nhiệt trong đêm thơ ở Gallery Six (San Francisco). Sau đó, nhà thơ Lawrence Ferlinghetti, chủ nhà xuất bản City Lights Book đã in tập thơ dưới dạng bỏ túi Hú và những bài thơ khác. Cảnh sát San Fransisco tịch thu cuốn sách, và người xuất bản phải hầu toà vì tội công bố một "quyển sách dâm ô". Kết quả L. Ferlinghetti trắng án, bản thân A. Ginsberg và Howl trở nên lừng lẫy. Cho nên, cách hiểu về các thành viên nòng cốt của thế hệ Beat bao gồm các nhà văn chuyển đến từ bờ Đông cộng với các nhà văn của trường phái San Francisco. Còn các nhà thơ trong trường phái thơ Black Mountain và Trường phái New York không phải là những thành viên nòng cốt song cũng góp phần tạo nên “văn hóa Beat” vào thập niên 50.

Thế hệ người Mỹ sống vào thập kỷ 50 thường được mệnh danh là “thế hệ im lìm” (The silent generation) vì thế hệ này thoát thai từ đại chiến thế giới thứ 2 bị coi là chỉ tìm một cuộc sống vật chất đầy đủ tiện nghi và sinh hoạt tinh thần công thức. Họ bị thanh niên chê là “vừa mù vừa câm”. Cũng trong quãng thời gian này, nước Mỹ đang đối đầu với phe cộng sản trong cuộc Chiến tranh Lạnh, đặc biệt Chủ nghĩa McCarthy, hay phong trào tố cộng mang tên Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy, đã khuấy động nước Mỹ với cái mũ chụp những ai liên quan đến cộng sản một cách vô tội vạ, nhất là với văn nghệ sĩ. Chẳng thế mà H. E. Caen đặt ra thuật ngữ “beatniks” còn chua thêm “có lẽ thân Cộng Sản” (possibly pro-
Communist) trùm lên nhóm Beat.

Tuy nhiên, thập niên 50 không chỉ có mỗi kìm kẹp, kiểm soát, ngột ngạt mà còn thời đại phát triển của của thứ văn hóa của bình dân. Đáng chú ý nhất sự ứng tác các yếu tố trong nhạc jazz. Dòng nhạc “Bebop”
[6] vào cuối những năm 1940 với tên tuổi của Charlie Parker và những nghệ sĩ khác cùng dòng nhạc là một trong những tác nhân quan trọng ghi lại dấu ấn trong nhiều thành viên của thế hệ Beat, nhất là trong trường ca Hú của A. Ginsberg. Về ngoại hình của thế hệ Beat gồm kính gọng sừng, chòm râu dê và mũ nồi theo một khuôn có sẵn xuất phát từ thời trang của tay kèn trumpeter Dizzy Gillespie.

Các nhà văn thế hệ Beat đầu tiên gồm
Jack Kerouac, Allen Ginsberg, William S. Burroughs gặp nhau ở New York vào năm 1948 và năm 1950 có thêm cả Gregory Corso (thỉnh thoảng họ gọi nhau là "New York Beats" cho dù chỉ có Corso là người New York). Trường Đại học Columbia là nơi lưu nhiều dấu ấn của thế hệ Beat. Đó là nơi mà Kerouac, Ginsberg, Lucien Carr, Hal Chase gặp nhau. Nhiều ý định của họ đã nảy ra trong thời gian này với các giáo sư như Lionel TrillingMark Van Doren. Đó giống như điều kiện để một vào người bạn cùng lớp như là Louis SimpsonDonald Hall bắt đầu bảo vệ cho chủ nghĩa hình thức. Đây là nơi mà Carr và Ginsberg đã thảo luận những điều cần thiết cho một “nhãn quan mới” (new vision) một thuật ngữ có nguồn gốc từ nhà thơ Pháp Arthur Rimbaud nhằm thoát khỏi những người có tư tưởng bảo thủ trong văn học. Những Beatnik tôn sùng Rimbaud (chỉ làm thơ từ 15 đến 19 tuổi đi 3 châu Á, Phi, Âu, thoát ly mọi truyền thống để thực hiện tính cách). Rimbaud tự ví mình là “con tàu say” (Le bateau ivre) tự do theo dòng nước. Những người Beatnik cũng chịu ảnh hưởng của nhà thơ lãng mạn Anh W. Blake, tiểu thuyết gia Mỹ Henry Miller và nhà thơ siêu thực Pháp Tristan Tzara (có thể thấp phương pháp cắt vụn (cup-up) câu văn trong các tác phẩm của W. Burroughs) [7].

Các nhà thơ Beat nhanh chóng vượt xa các nhà thơ siêu thực. Họ tự giải phóng mọi ràng buộc, thoát khỏi sự gò bó bởi lí trí, logic, đạo đức, tôn giáo… Sáng tác bột phát ghi chép lại tất cả những hiện tượng và trạng thái tâm lý luôn luôn biến chuyển trong tiềm thức. A. Ginsberg từng nói: “ý nghĩ đầu tiên là nghĩ tốt nhất”. Dù sau này người ta tìm thấy bản thảo Hú với những gạch xóa chi chít, sự “biên tập” đó chỉ để khiến bài thơ “hoàn thiện” hơn chứ không thể dựa vào đó để không phủ nhận lối viết mới của A. Ginsberg đưa ra: “Tôi có một phương pháp thơ mới. Tất cả những gì bạn phải làm là xem xét kỹ những cuốn sổ tay của bạn… hay nằm xuống trên đi văng, nghĩ về bất cứ điều gì đi vào trong đầu mình, đặc biệt là những nỗi thống khổ. Rồi sau đó, hãy sắp xếp chúng thành dòng, mỗi dòng hai, ba, bốn từ, đừng bận tâm về các câu, cứ hai, ba, bốn dòng hợp thành một đoạn”. Không chỉ có Ginsberg với thơ mà ngay cả J. Kerouac cũng sáng tác bột phát với tiểu thuyết Trên đường được viết trên một cuộn giấy teletype (điện báo đánh chữ). Cuốn tiểu thuyết được viết trong vòng không đến ba tuần lễ trong năm 1951 thể hiện một phong cách tươi mới câu văn lan man dựa trên kết cấu rời rạc của nhạc jazz bởi: “Không có “sự chọn lọc” trong diễn đạt mà cứ đi theo sự liên tưởng của tâm trí, chìm vào những biển suy tư vô bờ bến với chủ đề triền miên”- J. Kerouac nhấn mạnh.

Đi sâu khám phá vô thức, giả điên hay vào bệnh viện tâm thần (năm 1949, A. Ginsberg đến
Bellevue Hospital và gặp Carl Solomon – một bệnh nhân tâm thần người sau này tạo cảm hứng cho Hú), quan tâm đến giấc mơ, sử dụng ma tuý không phải để thoát ly thực tế mà để chinh phục hiện thực của siêu thực. Thi ca quay lưng với văn chương hàn lâm kinh viện để hoà nhập với cuộc sống trần tục. Từ đó tuôn ra đủ các thứ từ ngữ kệch cỡm, tiếng lóng, thô tục, huyền bí… Dòng thơ Beat cũng như nhạc Jazz da đen vào những năm 20 tìm cách quay về “tiềm thức tập thể” mà xã hội công nghiệp tìm cách bóp nghẹt. Họ tìm đốn ngộ qua đạo Phật giáo Tây Tạng.

Thế hệ Beat đã làm nổi bật tính ưu việt cốt yếu của họ như: tính tự nhiên, kết cấu mở, sự gặp gỡ của các cảm giác bản năng trong sự trải nghiệm đời thường; trong vẻ bề ngoài nghịch lý, các nhà văn Beat thường nhấn mạnh sự khao khát trong tâm hồn, sử dụng những khái niệm và hình ảnh từ đạo Phật, đạo Do Thái, đạo Thiên Chúa… Một trong hầu hết các khía cạnh tiêu biểu đã được công khai của thế hệ Beat là cuộc chiến liên miên để giới hạn sự diễn đạt tự do. Các nhà văn Beat đã đưa ra phần chính yếu của tác phẩm văn chương có thể gây tranh cãi cho cả sự biện hộ không phù hợp và cả phong cách nghệ thuật không tương ứng. Ngôn ngữ và chủ đề (sử dụng ma túy, tình dục, cư xử lập dị) đã thúc đẩy những người tuân giáo đi đến ranh giới phải thừa nhận. Tác phẩm “Beat” đầu tiên đã gây được sự chú ý trên cả quốc gia là Hú của A. Ginsberg, dựa trên một chừng mực nào đó của ngôn ngữ và các biểu tượng tình dục và sự khiêu dâm càng tạo nên tiếng tăm cho tác phẩm. Một trong những tác phẩm nổi tiếng lâu dài là Trên đường(1951) của J. Kerouac, nó đã bị chỉ trích nặng nề và không được công bố cho đến năm 1957, theo chiều hướng dựa trên tiếng tăm từ tính khiêu dâm của Hú, J. Kerouac đã bị kết tội sau đó vì kích động những gì tội lỗi. Tác phẩm chính của W. Burroughs là
Bữa trưa trần truồng sinh động hơn Hú, cũng tương tự như vậy, nó thử nghiệm tính khiêu dâm sau khi xuất bản. Những thử thách đó đã cho thấy rằng, nếu bất kỳ điều gì được cho rằng có giá trị văn chương, sau cùng nó không còn mang tính khiêu dâm nữa.

Nhìn lại các trào lưu văn học, văn hóa mới ra đời bao giờ cũng bị phê phán. Ngay cả với một đất nước có đặc điểm đa văn hóa, dễ thu nhận cái mới như Mỹ cũng không phải là ngoại lệ. Một nhà phê bình nổi tiếng với những chỉ trích với thế hệ Beat là
Norman Podhoretz. Ông từng là một sinh viên tại đại học Columbia có quen biết A. Ginsberg và J. Kerouac.

Năm 1958, ông cho công bố một bài báo trên Partisan Review với cái tên "Những người Bohemians chẳng biết gì". Cũng như
Russell Jacoby (trong cuốn sách của của ông mang tên Những trí thức cuối cùng) diễn tả, trong tiểu luận, Podhoretz đã “bảo vệ văn minh chống lại những người man rợ”: “Ở đó một tiếng khóc bị kìm nén ở những cuốn sách đó [của Kerouac]: Gây tai hại cho những người trí thức ông ấy đã nói một cách mạch lạc, triệt hạ con người có thể ngồi yên trong năm phút ngay lúc này. Những người theo chủ nghĩa Bohemian trong thập kỷ 50” là “thù địch văn minh, nó sùng bái sự nguyên sơ, bản năng, năng lực tiềm tàng, “máu nóng”. Với Podhoretz, “Đây là cuộc nổi dậy tinh thần của những người bị thiệt thòi về quyền lợi”.

Podhoretz có ý niệm mơ hồ về một liên kết giữa những người Beat và những người phạm pháp, một sự căm ghét thường thấy của văn minh và khả năng hiểu biết: “Tôi tình cờ tin rằng đó là sự chuyển tiếp rõ ràng giữa tính mềm yếu của đời sống tầng lớp trung lưu Mỹ và sự phổ biến của thanh niên phạm tội trong những năm 50 nhưng tôi cũng tin rằng thanh thiếu niên tội phạm có thể giảng giải đến chừng mực nào đó trong lời lẽ giống như sự oán hận chống lại cảm giác ở mức bình thường và sự cố gắng đương đầu với thế giới hiểu biết mà Ginsberg và Kerouac đã ngộ nhận”.

Trong một đoạn trích dẫn khác cũng từ bài viết "Những người Bohemians chẳng biết gì": "Sự chống đối hiện thời mà thế hệ Beat phản kháng phải làm để phủ nhận rằng sự rời rạc là cao hơn sự chính xác, sự ngu dốt là cao hơn sự hiểu biết, rằng sự áp dụng của tâm trí và nhận thức đúng đắn là một hình thái của cái chết”.

Podhoretz có lẽ đã không đi sâu để tìm hiểu thực chất cái gọi là thế hệ Beat. Nếu nhìn nhận bối cảnh xã hội Mỹ những năm 50 ở trên thì sự xuất hiện thế hệ Beat không phải là một cây nấm lạ. Thêm vào đó, những người tạo ra văn hóa Beat đều là những người có học vấn nhà trường cao và đặc biệt khả năng tự học rất lớn bất cứ lúc nào và ở đâu; cho nên có thể xếp họ vào tầng lớp élite của xã hội. Họ khác với những nhà văn đi trước bởi con đường sáng tạo lẫn cuộc sống đời thường gắn với đời sống thường nhận thu nhận cả văn hóa của những người dưới đáy. Dễ hiểu vì sao mà A. Ginsberg phản ứng gay gắt cũng vào năm 1958 trong cuộc phỏng vấn với tờ
The Village Voice (sưu tầm trong cuốn Spontaneous Mind): “Tiểu thuyết không phải một trạng thái tưởng tượng của tưởng tượng thực tế - đó là sự diễn đạt của một cảm giác đặc biệt. Podhoretz chẳng hiểu quái gì về viết văn. Anh ta cũng không vô tư trong những vấn đề chuyên môn của văn xuôi và thơ”.

Những lời phê phán không những làm mất uy tín của những người Beat mà trái lại càng làm cho họ nổi tiếng. Những hình ảnh của “beatniks” xuất hiện trên những tránh biếm họa, điện ảnh và các show truyền hình, có lẽ nổi tiếng nhất bắt đầu từ nhân vật
Maynard G. Krebs do Bob Denver thủ vai trong phim sitcom Những mối tình của Dobie Gillis (trình chiếu từ 1958 đến 1963). Nhà báo Glenn O'Brien nhận định: “Maynard là một người luôm thuộm, lười biếng và không hành xử như văn hóa chủ đạo ở trường đại học. Maynard là một kẻ hậu lãng mạn (post-romantic), một người có óc thực tế đang mơ mộng. Tôi không biết về điều gì về một người Bohemian nhưng tôi nhận ra khi tôi nhìn thấy họ. Maynard là một điều mỉa mai chống lại Beatniks nhưng điều đó không mấy quan trọng bởi vì danh tiếng của Beat đã lan tỏa khắp nơi”.

Nhóm nhà văn Beat không phải là những người yêu thích hoạt động chính trị. Họ không chủ trương dùng văn học để phục vụ cho mục đích chính trị như A. Ginsberg phát biểu: “Thơ ca không phải là một cách biểu đạt của một chính đảng. Công việc của nhà thơ là: mỗi khi đêm về, anh nằm trên giường, suy nghĩ về những gì mình thật sự nghĩ, làm cho cái thế giới riêng tư của anh được bộc lộ ra với công chúng”. Bản thân những nhà văn Beat cũng không ngờ rằng các tác phẩm văn học của họ lại có ảnh hưởng mạnh đến thanh niên như vậy.

Tiểu thuyết Trên đường của J. Kerouac kể chuyện một người đàn ông tên là Sal Paradise - nhân vật chính cùng với bạn tên là Dean Moriaty (mượn hình ảnh từ một người bạn Beat có thật của Kerouac là Neal Cassady) quá giang khắp nước Mỹ để hưởng cảm giác lang bạt, được kết bạn mới, những cuộc tình mới, những bữa rượu bất kể giờ giấc, những kinh nghiệm sống phi vật chất với thái độ bất cần. Chuyến đi giang hồ ấy đủ cho hai nhân vật trải qua đủ những giây phút sảng khoái, tuyệt vọng, trống rỗng và bi đát, nỗi buồn đặc thù trên đất Mỹ mênh mông – không những đưa J. Kerouac lên hàng những người viết đổi mới mà còn biến Beat thành một “huyền thoại” hấp dẫn nhiều người đọc của những năm 50. Đã không ít thanh niên thời ấy bắt chước nhân vật trong tiểu thuyết mang một ba lô và vẫy tay xin quá giang. Hình ảnh ấy cho đến tận ngày nay ta vẫn bắt gặp trên phim ảnh không chỉ có Mỹ mà ở phương Tây nói chung.

Hú của A. Ginsberg nổi tiếng với những từ ngữ khiêm dâm đến mức phải ra tòa nhưng được xử trắng án. Từ đó, góp phần nới rộng tự do xuất bản ở Mỹ. Những tác phẩm của thế hệ Beat mở đường cho thời kỳ mới trong văn học Mỹ có dấu ấn cho đến ngày nay. Nhiều xuất hiện trong những năm 60 và 70, có nhiều dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại có mối liên hệ mật thiết với các tác phẩm trước đó của thế hệ Beat, đáng chú ý hơn cả là tiểu thuyết Bay trên tổ chim cúc cu (1962) của Ken Kesey. Một số tiểu thuyết gia hậu hiện đại khác như Thomas Pynchon với tiểu thuyết Cầu vồng của trọng lực (1973).

Đặc tính của thơ của thế hệ Beat là khả năng ngẫu hứng, ứng tác, trình diễn, xuất thần có ảnh hưởng đến Thơ trình diễn (Performance Poetry) đầu những năm 90.

Thế hệ Beat còn tạo nên ảnh hưởng đến nghệ thuật của cộng đồng da đen Mỹ đặc biệt là âm nhạc của giới người da đen (nhạc Blue). Vào thời đó giới Beatniks là những người da trắng duy nhất ở Mỹ thích nghe nhạc của người da đen. Beat còn tạo ra ảnh hưởng đến nghệ thuật của cộng đồng da đen Mỹ trong các tác phẩm của các nhà văn như:
Gwendolyn Brooks, Maya AngelouNikki Giovanni tạo nên sức mạnh văn hoá của người Mỹ gốc Phi thể hiện trong lĩnh vực tâm linh, tinh thần tương trợ, bản sắc chủng tộc, cấu trúc gia đình rộng mở và nhà thờ. Những nhân tố này được xem là nguồn lực hỗ trợ trong ý thức hệ và trong thực tế cuộc sống của họ.

Từ lĩnh vực hẹp văn học dấu ấn của thế hệ Beat còn in đậm trong văn hóa Mỹ đặc biệt là văn hóa vùng viễn Tây. Từ những năm 60, A. Ginsberg đã thực hành tọa thiền. Đến năm 1971, Allen Ginsberg và Gary Snyder dưới sự hướng dẫn của thượng tọa Chogyam Trungpa
[8] đi sâu vào con đường tu tập theo phái mật tông ảnh hưởng về mặt trí tuệ, văn hóa và tư tưởng lên thế hệ Beat là cực kỳ mãnh liệt thể hiện qua các tác phẩm Phật pháp của kẻ lang thang (The Dharma Bums) (1958) của J. Keouac, Kaddish và những bài thơ khác (1961) của A. Ginsberg, những bài thơ của Gary Snyder, chịu ảnh hưởng sâu đậm từ điều ông học được từ Thiền Nhật Bản và các thi sĩ Trung Hoa đời Đường.

Mật tông Tây Tạng là gần như còn giữ nguyên vẹn giá trị đích thực nguyên sơ của tông phái mật tông. Mật tông là con đường ngắn nhất để đạt tới giác ngộ của phật giáo vì vậy có luôn hai mặt của quá trình giác ngộ: Siêu Việt và Nguy Nan. Mật Tông coi trọng chuyển hóa năng lượng. Đặc biệt tình cảm được coi là năng lượng mạnh nhất. Các đam mê (dục) như sắc dục, mê rượu, mê thuốc đều được xếp vào loại năng lượng này. Mật Tông không chủ trương diệt dục theo cách khổ hạnh mà thay vào đó chủ động đón nhận năng lượng và chuyển hóa nó lên bậc cao hơn. Đặc biệt Mật Tông coi trọng năng lượng âm dương. Không gò bó giáo luật và có nét tương đồng với tâm lí người phương Tây nên mật tông lan truyền rất nhanh ở Mỹ. Mật tông là giáo pháp mà sư phụ truyền cho học trò bằng lời (khẩu quyết) nên thượng tọa Chogyam đặt tên học viện phật giáo của mình là Naropa (Boulder, Colorado) - nhị tổ của phái Truyền Khẩu.

Nhưng có lẽ, không ở đâu ảnh hưởng của thế Beat lại sâu đậm qua phong trào hippy phản chiến những năm 60. Bước vào thập kỷ 60, văn hóa Beat phát triển trải qua một biến đổi: thế hệ Beat mở đường cho phong trào phản văn hóa (counterculture) những năm 60; đi cùng bằng một sự thay đổi thuật ngữ từ “beatniks” đến “hippie”. Phong trào phản văn hoá chia làm hai khuynh hướng: hoạt động chính trị (politicos) đứng dưới ngọn cờ phe tả mới (New Left) và khuynh hướng đâm sinh hoạt bừa bãi (drruggies). Những người Beat không đứng hẳn về một khuynh hướng nào nhưng họ nhiệt tâm ủng hộ những người phản kháng khi lên tiếng: đòi hòa bình, bình đẳng, tự do hôn nhân cho người đồng tính…

San Francisco trở thành trung tâm của phong trào phản chiến với sự kiện Mùa hè tình yêu (1967). Cuộc tụ tập đó mang tên "Human Be-in" (Dấn thân làm người). A. Ginsberg thuyết giảng đấu tranh ôn hòa bằng các đóa hoa trên tóc, trên áo... (theo lời hô hào của ca sĩ Scott McKenzie trong bài hát San Francisco: “Nếu bạn đến San Francisco/ Hãy nhớ cài hoa trên tóc”) như một thứ sức mạnh (flower power). Phong trào hippy khởi đầu cho lối sống cộng đồng chia sẻ... tạo ra văn hóa nhóm (subculture).

A.Ginsberg trong chừng mực nào đó sớm gần gũi với thần tượng thập kỷ 60 là nhà văn, nhà tâm lý theo thuyết vị lai
Timothy Leary và giúp ông ta phân phối LSD [9] trong nhóm người sử dụng chất kích thích. Hippy thể nghiệm cuộc sống tình dục chung, ma tuý, tuyên bố quyền lực yêu đương, trở về với đất và thiên nhiên. Họ để tóc dài, ăn mặc quần óc lập dị mê nhạc rock. Khẩu hiệu nổi tiếng: “Make love, not war” (yêu nhau và quên chiến tranh) . A. Ginsberg trở thành “guru” (đạo sư) của những người phản kháng. Ông cùng với H. Marcuse (nhà Triết học Mỹ gốc Đức) và P. Goodman (Nhà văn và triết gia Mỹ) trở thành thầy tư tưởng của những người phản kháng. Những nghệ sĩ của thời đại Hippy như Bob Dylan, The Beatles, The Door, U2… đều là fan của “Beats” và thừa nhận ảnh hưởng tinh thần của thế hệ Beat trong sáng tạo của họ.

Mặc dù không tạo ra một lối sống mới thoát ly xã hội công nghiệp nhưng thế hệ Beat và sau này là thế hệ Hippy đã có ảnh hưởng đến đời sống xã hội Mỹ về sau đó ý thức bình đẳng được nhấn mạnh hơn, nhiều tục lệ phiền toái bị bỏ, cuộc sống bớt gò bó. Nhà văn, nhạc sĩ Michael McClure nhận định: “Nếu thanh niên hồi đó không kiên quyết hy vọng vào một nền văn hóa mới, một kiểu mẫu gia đình mới, một cộng đồng sống mới, nếu họ không thể hiện niềm tin của mình vào hòa bình, thiên nhiên, giới tính... thì giờ này, hẳn chúng ta vẫn đang vùi mình trong tối tăm”.
Vậy là từ một nhóm nhỏ người bạn say mê văn chương, thế hệ Beat đã bất tử trở thành một huyền thoại văn hóa của nước Mỹ.

Chú thích:
[1] Irwin Allen Ginsberg (3/ 6/ 1926 – 5/ 4/ 1997) sinh tại Newark, New Jersey, là con của Naomi Levi Ginsberg, một phụ nữ Nga gốc Do Thái và Louis Ginsberg, một nhà thơ có uy tín ở địa phương. Allen Ginsberg học Đại học Columbia. Bước ngoặt trong đời là khi ông gặp Jack Kerouack và Williams S. Burroughs, những nhà văn về sau sẽ trở thành nòng cốt của phong trào Beat. Tốt nghiệp đại học năm 1948, ông làm rất nhiều nghề: thuỷ thủ, thợ nhà in, rửa bát, nhân viên tiếp thị... Năm 1950, A. Ginsberg đến San Francisco, ở đó ông gặp các nhà thơ trường phái San Francisco. Ông trở nên nổi tiếng với bài thơ Hú được dịch ra 24 thứ tiếng khác nhau. Ông trở thành phát ngôn của thế hệ Beat lừng danh. A. Ginsberg đã được bầu vào Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ.



[2] Jack Kerouac (12/ 3/ 1922 – 21 / 10/ 1969) là một gương mặt, là hình ảnh hàng đầu của Thế hệ Beat Mỹ. Ông sinh ở Lowell, Massachusetts, là con thứ ba trong một gia đình lao động di dân từ Canada. Năm 17 tuổi ông vào Đại học Columbia với một học bổng football nhưng không lâu đã bỏ học, rồi vào hải quân một thời gian trước khi được trả về vì lý do “loạn tâm thần”. Sau đó ông vào ngành hàng hải đi các vùng khác nhau ở Mỹ và Canada, bước khởi đầu cuộc sống phiêu bạt sau này sẽ làm chất liệu cho nhiều tác phẩm văn xuôi và tiểu thuyết nổi tiếng, phần lớn là tự thuật, hay bán tự thuật. Từ 1944, ở Columbia, ông bắt đầu giao du với một nhóm nhà văn nhà thơ trong đó có William Burroughs, Allen Ginsberg, tiếp sau đó là Gary Snyder, Gregory Corso, rồi Peter Orlovsky... Cuối đời, Kerouac có một cuộc sống khá liều lĩnh, thường xuyên dùng ma túy. Tiểu sử của ông có lẽ từ ngày ông qua đời, 21 tháng 10 năm 1969 do bị xuất huyết đường ruột, ở St. Petersburg, Florida.

[3] William Seward Burroughs (5/ 2/ 1914 (1914-02-05) – 2/ 8/ 1997) là nhà văn nổi tiếng của thế hệ Beat. Ông sinh ở St. Louis, Missouri. Ông học đại học Harvard (1932 - 1936). Sau thời gian chu du châu Âu ông gia nhập quân đội vào năm 1942. Giải ngũ ông bắt đầu viết văn và quen biết các nhà văn Beat khác. W. Burroughs cùng với J. Kerouac và A. Ginsberg trở thành bộ ba huyền thoại của thế hệ Beat. Thời gian sau, ông sống nhiều nơi chủ yếu Anh, Pháp và Kansas (Mỹ). Ông qua đời tại quê nhà St. Louis, Missouri.[4] Thế hệ mất mát (The Lost Generation) chỉ những thế hệ người - mất gốc , mất lý tưởng, mất niềm tin, lạc loài, lạc lối - họ hoang mang và ủy mị trước sự biến đổi quá nhanh của ngoại cảnh và nghiêng theo tư tưởng bi quan yếm thế. Khái niệm Lost Generation xuất hiện đầu tiên tại Hoa Kỳ sau thế chiến thứ nhất 1914 – 1918, khởi đầu từ tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc của Ernest Hemingway sau đó là tiểu thuyết Gatsby vĩ đại của Francis Scott Fitzgerald.

[5] William Carlos Williams (17/ 9/ 1883 – 4/ 3/ 1963) là một gương mặt quan trọng của thơ ca Mỹ thế kỷ 20. Ông sinh tại Rutherford, New Jersey. Năm 1902, vào học khoa y ở Đại học Pennsylvania và suốt đời hành nghề y khoa tại quê nhà. Williams là nhà thơ đã làm thay đổi diện mạo thơ ca Mỹ hiện đại. Ông là nhà thơ góp phần quan trọng nâng cao ý thức về tính đặc thù của văn chương Mỹ. Một nền văn chương đề cao sự cụ thể, tính địa phương, và sự trực tiếp trong ngôn ngữ. Ông quan niệm ngôn ngữ thơ phải có khả năng truyền đạt trực tiếp, như cái cách mà nó được sử dụng trong đàm thoại hàng ngày. Thơ, theo ông, phải mang tính đặc thù địa phương, cụ thể và chính xác. Khẩu hiệu thơ nổi tiếng của Williams: “không ý tưởng, chỉ bằng vào sự vật”. Ông là nhà thơ ảnh hưởng đến nhiều tên tuổi nổi tiếng như Allen Ginsberg, Charles Olson, Denise Levertov, Robert Creeley
[6] Bebop là một trào lưu hay một phong cách trong nhạc jazz trong giai đoạn 1945-1955. Giữa những năm 40, một số nghệ sỹ nhạc jazz nổi tiếng như Charlie Parker, Dizzy Gillespie, Thelonious Monk cảm thấy cần có một xu hướng mới trong âm nhạc. Họ muốn có nhiều cơ hội cho việc biểu cảm của từng cá nhân mà họ đã không có được khi chơi cho ban nhạc lớn. Âm nhạc lúc đó không có nhiều thức thách về giai điệu, hoà âm hay tiết tấu. Họ muốn âm nhạc được chơi không chỉ đơn giản là dành cho các điệu nhảy mà còn dành cho việc cảm thụ khi nghe. Thuật ngữ "Bebop" được hình thành khi các nghệ sỹ jazz luyện âm hoặc hát các giai điệu dành cho nhạc cụ cùng với các âm tiết vô nghĩa khác hay còn gọi là các bản nhạc jazz không lời với thử nghiệm các hoà âm, giai điệu mới với tiết tấu nhanh hơn cho các sáng tác ngẫu hứng.



[7] Nhận định của Barry Lewis: “Cắt-vụn là phát kiến của Tristan Tzara, người đã dự kiến nó như một hình thức ngôn từ tương đương với hình thức cắt dán của phái lập thể và phái Dada trong nghệ thuật tạo hình. W. Burroughs còn sử dụng kĩ thuật gấp-lại tức là một trang văn bản được gấp theo chiều dọc, rồi sắp song song với một trang khác cho đến chừng nào hai nửa đánh cặp khít khao với nhau. Cũng như cắt-vụn, cố hết sức để tránh những cái khuôn của văn chương hư cấu bình thường. Còn ít văn bản trực tiếp vay mượn những kỹ thuật này, nhưng tinh thần chuộng may rủi của Burroughs dứt khoát là giống với nhà văn hậu hiện đại sau này như Julian Cowley ghi nhận trong một tiểu luận về Ronald Sukenick (1987), trong cả âm nhạc và văn chương: "Thái độ sẵn sàng du hành với ngẫu nhiên có thể được xem là một thái độ hậu hiện đại tiêu biểu". (Nguyên tác: "Postmodernism and Literature, or: Word Salad Days, 1960-90",trong The Icon Critical Dictionary of Postmodern Thought, ed. Stuart Sim (Cambridge: Icon Books, 1998) do Hoàng Ngọc – Tuấn dịch)
[8] Thượng tọa Chogyam Trungpa (2/ 1939 - 4/ 4/ 1987) là nhà sư đầu tiên truyền bá mật tông Tây Tạng sang phương Tây. Cùng với thượng tọa Tarthang Tulku, Chogyam Trungpa cũng là bậc Bảo Quý (tiếng Tây Tạng gọi là Rinpoche, nghĩa là “quý báu”, giáo phẩm cao nhất trong Phật Giáo Tây Tạng tương đương với Thượng Tọa và Hòa Thượng của Việt Nam). Cả hai vị này đều lại được giáo hội Phật Giáo Tây Tạng truy nhận từ lúc còn rất nhỏ bé là Bồ Tát Hóa thân, hiện thân (Tulku). Tarthang Tulku là hóa thân thị hiện của sư trưởng tông Phái Nyingma và nối tiếp dòng tu Tarthang trong truyền thống Mật tông Padmasambhava; còn Chogyam Trungpa là hậu thân thứ mười một của Sư Trưởng Trungpa Tulku thuộc tông phái Kagyu và nối tiếp dòng tu viện Surmang trong truyền thống Mật tông Marpa và Milarepa. Chogyam Trungpa rời bỏ Tây Tạng năm 1959 tỵ nạn ba năm ở Ấn Ðộ. Rồi đến Anh quốc 4 năm học ở đại học trường Oxford, rồi năm 1970 thì Chogyam Trungpa đến định cư ở Mỹ, xây dựng nhiều Phật học viện. Chogyam Trungpa cũng là một thi sĩ với tập thơ tiếng Anh Mudra (1972).
[9] LSD là loại chất ma túy gây ảo giác do nhà hóa học người Thụy Sĩ Albert Hofmann (1906 - 2008) xác định vào năm 1938. Ông Hofmann từng hy vọng là chất LSD có thể đóng góp cho công cuộc nghiên cứu y khoa. Tuy nhiên, chất này đã mau chóng trở thành một loạo ma túy được giới hippie của thập niên 1960 ưa chuộng. Hoa Kỳ cấm dùng LSD vào năm 1966, và sau đó, những nước khác cũng có những lệnh cấm.



Tài liệu tham khảo:
1. Allen Ginsberg: Howl and other poems (in lần 40), City lights book, San Francisco, 1/ 1992.
2. Allen Ginsberg: Collected Poems 1947 – 1980, Harper & Row, New York, 1984.
3. Allen Ginsberg: Spontaneous Mind 1958 – 1996, Harper Collins Publisher, New York, 2001.
4. Jack Kerouac: On the road, Viking Press, New York, 2007.
5. Kathryn Van Spanckeren: Phác thảo văn học Mỹ (Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 11/1998)
6. Nhiều tác giả: Quotationsabout Poetry and Poets (Nguồn:


Linh Đàm, 8/ 2008
Hàm Đan dịch từ nhiều nguồn trên internet
http://www.mollieb.us/poetryquotes.html)
7. Nhiều tác giả: 15 nhà thơ Mỹ thế kỷ 20, NXB Hội nhà văn, 2005.
8. Nhiều tác giả: Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lí thuyết, NXB Hội nhà văn, 2003.

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2009

MA THUẬT NGÓN – MỘT CÁI NHÌN SIÊU THỰC VỀ CUỘC SỐNG


Sau khi biết nhà thơ Trần Tuấn đã cho xuất bản tập Ma thuật ngón dự giải Thơ Bách Việt, tôi lên mạng tìm thêm thông tin và tìm được mấy bài thơ trong tập Ma thuật ngón đã từng đăng rải rác trên các trang web. Hình như, tôi đã từng đọc và đã quên cũng đơn giản là không ai nhớ hết mọi thứ, mọi điều đã đọc (Nhại từ câu nói: Không ai đọc hết mọi thứ, mọi điều của một nhà phê bình tăm tiếng nọ). Có lẽ những bài thơ đăng tải riêng lẻ ấy chưa hiện lên những nét đặc sắc được gây dựng từ Trần Tuấn trong cuộc cách tân thơ sôi động và quyết liệt hiện nay. Thế nhưng, đọc trọn tập Ma thuật ngón ấn tượng về về một tập thơ vững vàng, nhiều thủ pháp (hay nôm na là ngón nghề) có ít nhiều ám ảnh cho phép hình dung để định danh, định tính tác phẩm là điều khả dĩ.

Dài dòng như thế để nói đến điều đáng kể đầu tiên của tập thơ chính là tính hệ thống tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật sống động. Lâu nay, có hiện tượng là các tập thơ dường như chỉ là sự tập hợp các bài thơ đã từng in lẻ tẻ đâu đó. Những tập thơ kiểu trên vẫn có phong cách riêng của tác giả nhưng cái được biểu hiện qua tập thơ là cái nhìn thế giới mang ý thức triết học của nhà thơ thì không rõ ràng, thậm chí không có. Trần Tuấn có một ý thức sắp đặt để khiến mỗi bài thơ là một bộ phận cấu thành nên tập thơ - hệ thống. Ma thuật ngón chia làm ba phần: Phóng sinh từng phần thân thể, Về và Đỉnh rỗng. Ba phần ấy chứa đựng ba tâm thế nhưng chúng không đi theo một đường thẳng.

Điểm khởi đầu là nhà thơ dựng lên một thực tại thế giới hỗn độn và trong đó la liệt các vật chất gồm đồ vật và các bộ phận cơ thể. Môi trường đó “im lặng tuyệt đối”, màu sắc là trầm “vừa chối từ một chuyến nâu”, “thân xác thì đã tan tành” còn ý nghĩ vốn siêu hình cũng đang “siêu âm/ câm/ tìm một bờ Người khác”. Một thế giới đang mục rỗng, tăm tối. Và từ đó dẫn đến hệ quả Phóng sinh từng phần thân thể - mô-típ siêu thoát quen thuộc được lặp lại. Quá trình phóng sinh thân thể ấy diễn ra tự nhiên không có dấu hiệu của sự cưỡng bức.

Một hình thức tất yếu được sử dụng để tương hỗ với nội dung trên là hình thức thơ siêu thực. Thơ siêu thực đặt ra tiêu chí về hình ảnh và cái viết tự động. Những hình ảnh trong thơ siêu thực xây dựng tác dựa trên những thủ pháp như sự tương tự, cái nghịch lý, sự bất ngờ, sự thống nhất những cái không thể thống nhất được chính vì thế mà thơ siêu thực tương đối khó hiểu với cách đọc truyền thống gõ thẳng vào trái tim người đọc. Đó là cách nhà thơ chống lại sự tự động hóa của từ đi hình ảnh mới, lạ hóa từ ngữ. Song thơ siêu thực đòi hỏi ý thức lao động của cái hữu thức dẫn đến sự xuất hiện của những câu thơ vô thức xuất thần rất hiếm. Trong Ma thuật ngón, nhất là phần Phóng sinh từng phần thân thể trần ngập những hình ảnh siêu thực dù đó là cách thể hiện một sự vật:

cột điện gập lưng
bò lê
nôn mửa
bên hài cốt nhà
(Lưỡi bão)
hay siêu hình:
ý nghĩ neo rốn
thả
bào thai
kiệt nước
ý nghĩ tinh cầu
siêu câm
câm
tìm một bờ Người khác
(ý nghĩ (1))

Robert Bréchon trong cuốn Chủ nghĩa siêu thực chỉ ra ba cấp độ xây dựng hình ảnh cơ bản của thơ siêu thực. Trong Ma thuật ngón, hình ảnh thơ siêu thực vẫn ở cấp độ đơn giản đôi khi có những câu thơ theo lối so sánh cụt:

chân mọc tràn
ý nghĩ
dựng bờm đen
(Dọc mù sương)

Hình ảnh siêu thực xuất hiện trong tác phẩm tạo một không khí nghệ thuật đặc biệt, có tính huyền ảo, phi lý, mộng mị chiêm bao... – một cuộc “hợp hoan” giữa thực và siêu thực. Những hình ảnh siêu thực trong Ma thuật ngón vẫn chỉ là bước đầu của chủ nghĩa siêu thực trong vô vàn những thể nghiệm của trường phái.

Sau cuộc phóng sinh và một bước vòng của kí ức: dựng bờm đen ý nghĩ “Về” với “dọc mù sương”, “Vỹ Dạ đạt ma” “để lau một tiếng nói”… Thân thể đã phóng sinh và kí ức tuổi thơ cần cần tẩy đi những nỗi buồn chiến tranh vẫn còn hiện hữu. Làm được vậy mới nhẹ gót bước tới “đỉnh rỗng” nơi mà hư vô thống trị:

mọi ánh sáng đã đựng trong rỗng
mọi âm thanh đã đựng trong rỗng
mọi sắc màu đã đựng trong rỗng
mọi ngôn từ đã đựng trong rỗng
mọi hơi thở đã đựng trong rỗng
và rơi
trong thân thể rỗng
(Đỉnh rỗng)

Nhưng trong sự rỗng cũng có một cuộc phục sinh ngấm ngầm:

từ làn da của tôi mọc lên từng vạt cỏ xanh
hân hoan rễ cỏ mọc sâu vào rỗng không
thân thể
(Đỉnh rỗng)

Quá trình phóng sinh để đạt tới sự rỗng để tách riêng “tôi” với thân xác chứa đựng “thân thể tôi chỉ là nơi trú ngụ của một kẻ đào tẩu xa lạ. xác thân – ngôi nhà hoang đã rời bỏ từ lâu”. Qua đó, để suy ngẫm, phán đoán và tham vọng nhận ra bản chất của tồn tại – một cách phục sinh khác thường:

- tôi nhìn kẻ trú ngụ bằng ý nghĩ sút dây không ổ cắm
- kẻ trú ngụ nhìn tôi bằng chiếc gáy xa lạ
- xác thân nhìn tôi như kẻ quỵt tiền nhà

chỉ một phút giây ấy thôi/ rỗi cứ thế không đầu không thân thể không màu
không mùi vị
tôi đi với hơi thở nhẹ
không ngang qua sự cư trú nào nữa
(Kẻ trú ngụ)

Cuối cùng vẫn là cái đích đến vẫn là sự tự do bởi “tự do bao giờ cũng đẹp” (JMG Le Clézio) không bị bó buộc bởi bất cứ điều gì kể cả những định hướng mang tính phương pháp của suy tưởng.

Trên kia tôi đã thử vẽ lại sự kết nối của bằng cái nhìn thế giới của nhà thơ nhưng còn cấu trúc nghệ thuật của tập thơ Ma thuật ngón vẫn chưa chạm đến.
Ma thuật ngón là một sự cộng sinh của khuynh hướng thơ hiện đại và những yếu tố hậu hiện đại manh nha. Phóng sinh từng phần thân thế là những hình ảnh siêu thực, Về mang tính chất thơ hiện đại “không ý tưởng chỉ vào sự thật” (W. C. Williams) có khả năng truyền đạt trực tiếp như cách sử dụng đàm thoại hàng ngày:

giầy thường cười nhạo bàn chân:
-mày trong ấy thì nhìn thấy gì!
(Ngụ ngôn đường và chân)

Đỉnh rỗng là sự xâm thực của văn xuôi vào thơ khiến cấu trúc thơ nới rộng. Sự nới rộng cấu trúc thơ không phải là hình dáng câu thơ trở nên dài hơn mà chính là ngữ điệu câu thơ tiết nhịp mới:
tôi đóng nước vẫn chảy tôi đóng gió vẫn
vào tôi đóng nhạc vẫn reo tôi đóng mùa
vẫn đến tôi đóng đầy càng rỗng tôi tắt lửa
vẫn cháy tôi tắt bóng vẫn đổ tôi tắt ngày
vẫn sang
(Đỉnh rỗng)

Vật liệu của thơ không còn phải tìm kiếm mà luôn có sẵn bằng cách tái chế thông tin mang tính chất báo chí bằng thủ pháp nhại:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Hôm nay trời nhẹ lên cao Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi Giá đừng có giậu mồng tơi Thì đâu đến nỗi đánh rơi… (mất mấy chữ) Một giáo sư nhận định đó là mạc can phóng dao nhưng vào giai đoạn văn học nào thì chưa xác định”.
(Phóng sinh từng phần thân thể)

Tính cộng sinh dùng dằng trong tập thơ cũng ít nhiều hạn chế khả năng đào sâu, đi đến tận cùng vào một khuynh hướng tìm ra những chiều kích sâu và mới của khuynh hướng đó. Trường hợp Ma thuật ngón cũng tiêu biểu cho cái gọi là chuyển đổi chủ âm trong thơ Việt hiện nay. Có lẽ chủ âm của thơ hiện nay đã chuyển từ ngữ điệu thay cho vần và sơ đồ âm tiết. Nhưng sự xuất hiện của các chủ âm không phải là sự thay thế mà mà gối tiếp nhau bởi sự lắp ghép đã là một đặc tính của văn hóa Việt Nam.

Dẫu vậy, Ma thuật ngón vẫn là tập thơ kết hợp hài hòa các thủ pháp mới, cũ tăng hiệu quả thẩm mỹ và tính nghệ thuật của thơ. Song điều mà tập thơ này đóng góp chính là cố gắng dãi bày được một cách nhìn thế giới bằng thơ có chiều sâu đi vào bản chất qua những hệ chủ đề: những vấn đề mang tính bản thể luận muôn thủa của loài người: tồn tại, sự sống cái chết, ứng xử với quá khứ…

Linh Đàm, 29/ 10/ 2008.
Hàm Đan

"NGƯỜI ĐỌC" - NGƯỜI ĐANG YÊU!


Xuất bản năm 1995, cuốn tiểu thuyết mỏng Người Đọc (Der Vorleser) của Bernhard Schlink trở thành một best-seller quốc tế với 7 triệu bản được bán ra (đã được dịch ra tiếng Việt, đọc online ở đây) và sau đó được dựng thành phim phát hành tháng 1/ 2009 với tên tiếng Anh The Reader.

Người đọc là ai? Là một câu bé 15 tuổi tên là Michael (tên đầy đủ là Michael Berg) thể chất không lấy gì làm cường tráng (chính xác thì mắc bệnh gan). Cậu sống ở một thành phố nhỏ ở Tây Đức - một nửa nước Đức theo CNTB đang phát triển nhanh chóng vào thập niên 60. Gia đình cậu có thể coi là elite của XH với ông bố là GS triết học nghiên cứu về Kant và Hegel.

Đã có người đọc thì phải có người nghe. Người nghe tên là Hanna Schmitz, một phụ nữ làm nghề bán vé tàu điện hơn Michael 21 tuổi. Cô lên Berlin năm 17 tuổi làm công nhân cho hãng Siemens rồi năm 21 tuổi gia nhập quân đội phát xít làm quản ngục tại trại tập trung khét tiếng là Auschwitz và Krakov (Ba Lan).

Họ gặp nhau tình cờ. Mối quan hệ của họ nhanh chóng chuyển sang quan hệ tình dục. Dần dà đã trở thành một thứ nghi lễ dâng hiến. Nghi lễ ấy luôn bắt đầu bằng việc hai người tắm chung, rồi Michael đọc sách cho Hanna nghe - thường là một cuốn tiểu thuyết, sau đó là làm tình.

Photobucket

Một ngày kia, Hanna đột ngột biến mất. Michael đau khổ và dằn vặt bởi ý nghĩ vì mình hèn nhát, không dám thừa nhận mối quan hệ tình ái mà Hanna phải bỏ đi. Michael ngày nằo lúc này đã tốt nghiệp phổ thông và trở thành sinh viên luật. Với tư cách là sinh viên dự thính, trong một phiên toà Michael đã bất ngờ gặp lại Hanna - lúc này bị truy tố với tội danh khi làm quản tù đã cùng với các nữ quản tù khác dung túng và tiếp tay giết hại tù nhân ở các trại tập trung.

Phiên toà phải kéo dài vì thiếu bằng chứng cụ thể. Tuy nhiên, cuối cùng người ta cũng tìm ra được thủ phạm chính là Hanna khi chị thừa nhận rằng đã tự tay soạn thảo một biên bản, bằng chứng của tội ác. Khi phiên toà đi vào giai đoạn kết, Michael đã suy nghĩ và chắp nối tất cả các sự kiện có liên quan tới Hanna và anh phát hiện ra rằng, Hanna không thể là người viết biên bản ấy được, bởi đơn giản chị là người mù chữ. Mù chữ - đấy là nỗi xấu hổ lớn nhất của Hanna. Nó giải thích tất cả những hành vi che đậy kì quặc ở chị, khiến chị thà bị kết tội còn hơn là để lộ cái bí mật mà cả đời chị muốn che giấu. Michael đứng trước một hình huống khó xử. Một mặt, anh biết rằng Hanna bị oan và chỉ cần anh gặp quan toà, nói ra sự thật, Hanna sẽ được giảm tội. Nhưng mặt khác, điều đó cũng đồng nghĩa với việc bí mật của Hanna bị phanh phui và chị sẽ phải đối diện với sự khiếm khuyết đầy xấu hổ của mình. Sau những ngày đấu tranh nội tâm, thậm chí hỏi cả ý kiến của bố, Michael đã đi đến quyết định là giữ kín bí mật của Hanna. Kết cục, Hanna bị kết án tù chung thân. Michael tốt nghiệp đại học, làm việc ở ngành lịch sử luật pháp.

Anh kết hôn, có con rồi ly hôn. Suốt thời gian đó, anh không liên hệ với Hanna cũng như không một lần vào thăm chị. Năm thứ 8 khi Hanna ngồi tù, lần đầu tiên Michael gửi cho chị một cuốn băng ghi âm anh đọc truyện. Từ đó đều đặn, cứ vài ba tuần anh lại gửi cho Hanna một băng ghi âm mới. Một ngày kia, nhận được một bức thư: "Truyện vừa gửi hay quá, cậu bé ạ. Cám ơn. Hanna", Michael biết rằng Hanna trong tù đã tự học đọc và viết... Sau 18 năm tù, đơn xin ân xá của Hanna được chấp nhận. Theo thỉnh cầu của bà giám đốc trại giam, Michael đã đến thăm Hanna. Sau cuộc viếng thăm đó, anh đã chuẩn bị những điều kiện cần thiết để Hanna có thể tái hoà nhập với cuộc sống bên ngoài. Nhưng một ngày trước khi được tự do, Hanna đã treo cổ tự tử.

Một cốt truyện đơn giản nhưng nếu không phân tích kĩ lưỡng thì mỗi chi tiết nhỏ trong truyện nếu đọc lướt sẽ không thể hiểu, từ đó nối liền cấu trúc tổng thể tác phẩm. Cái tài của tiểu thuyết gia là khéo léo sắp đặt tạo ra nhiều tình tiết cất dấu để chính nhân vật xưng tôi và người đọc cuốn sách cùng đi trên một hành trình giải mã bí ẩn của tình yêu, tội ác etc Cũng nên nhớ đến quá khứ tội lỗi dân tộc Đức mà người đại diện là Hanna và một thế hệ không biết tới nó chỉ được nhà văn lướt qua nhưng đủ để tạo ra sự đứt gãy là có thật và đó là mạch ngầm đi dưới một câu chuyện tình mãnh liệt, nghịch lí về tuổi tác. Điều này đã được nhà bác học Erich Fromm đã lí giải trong bài Tâm lí của chủ nghĩa Đức quốc xã (trong cuốn Escape from freedom).

Nói về hậu trường bộ phim một chút, ban đầu người được nhắm vào vai Hanna là Nicole Kidman nhưng cuối cùng diễn viên được lựa chọn là Kate Witslet. Nàng Rose ngày nào trong Titanic giờ đã 33 tuổi rất thích hợp với vai Hanna. Ngoài ngoại hình hoàn mĩ của "vẻ đẹp Anh", Kate Witslet sở hữu sự "cương nghị" biểu cảm trên khuôn mặt. Điều này cực kì cần thiết để nhập vai Hanna bởi đó là tâm trạng cố che dấu sự xấu hổ do mù chữ.

Photobucket

Dù là phim hay truyện, chúng ta đều dễ dàng nhận thấy "người đọc" Michael chỉ có được hạnh phúc khi được ở bên cạnh hoặc nhớ về Hanna. Dù sau đó anh lập gia đình nhưng đó gần như chỉ là một thói quen ( như cách nói "bị thiên nhiên lừa" của Arthur Schopenhauer). Anh chia tay vợ mà không thấy đau khổ. Và khi thành đạt anh cũng không cảm thấy mình hạnh phúc hay thanh thản. Nhưng khi gặp Hanna khi cô vẫn ở trong tù, anh mới nhận ra niềm hạnh phúc vẫn đeo đẳng anh chỉ là quá khứ (mùi trên cơ thể Hanna đã là một bà già y và cảm xúc đó y chang một câu thơ sến của Trần Nhuận Minh, anh trai Trần Đăng Khoa: "Yêu em lúc trẻ gặp khi về già"). Hạnh phúc thật sự, tình yêu thật sự hóa thành vĩnh cửu khi anh ở tuổi 15 trong vai trò của một "người đọc". Khi ấy anh là một người đang yêu!

Tất nhiên, anh vẫn may mắn hơn rất nhiều người. Không chỉ anh đã yêu và đã được yêu mà trong những phút giây tình yêu ngắn ngủi và tưởng là phi lí ấy anh đã yêu hết mình.
Hàm Đan
P/S: Bài review này viết trước khi lễ trao giải Oscar 09 diễn ra. Và giải thưởng duy nhất The Reader nhận được là giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho Kate Winslate trong vai Hanna sau 5 lần đề cử thất bại. Chúc mừng Mrs Kate!