Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010

LỄ BẾ MẠC ASIAD 16 QUẢNG CHÂU 2010: NHƯ MỘT LỜI CHIA TAY...

Đúng 20 giờ địa phương, trên sân khấu đảo Hải Tâm Sa bên dòng Châu Giang thơ mộng của thành phố Quảng Châu đã diễn ra Lễ bế mạc ASIAD 16. Đây không chỉ là buổi lễ thủ tục để kết thúc một hoạt động thể thao mà đích thực là một đại tiệc âm nhạc và ánh sáng lung linh sắc màu…

Khác với Lễ khai mạc hoành tráng với những màn ca vũ kịch tạp kĩ cổ điển tái hiện lại diễn trình lịch sử hào hùng của đất và người Quảng Châu thì Lễ bế mạc ASIAD 16 có sự góp vui của những hoạt cảnh sân khấu và nghệ thuật hiện đại.

Đặc biệt hơn, trong buổi Lễ bế mạc không chỉ có những tiết mục văn nghệ mang đặc trưng của đất nước Trung Hoa mà còn có cả những bài ca, điệu vũ không kém phần độc đáo của các dân tộc châu Á. Mỗi một màn biểu diễn lại được phụ họa bởi những hình ảnh biểu trưng trên những màn hình khổng lồ và hàng trăm em nhỏ ngồi trên khán đài trình diễn xếp hình nghệ thuật càng làm tăng tính nghệ thuật của Lễ bế mạc. Lần lượt, tiết mục múa bụng và bài hát “Jai ho”-từng đoạt giải Oscar 2008 cho nhạc phim hay nhất của Ấn Độ; nữ ca sĩ Nhật Bản Nakano Rioko trình diễn bài ca “Hoa anh đào” trong trang phục kimono, bài ca những người kị sĩ Ca-dắc-xtan do ca sĩ Mera Kerey biểu diễn, ca khúc “Những ngôi sao” của “đất nước vạn đảo” In-đô-nê-xi-a, màn trình diễn “Hành trình vui vẻ” của những nghệ sĩ đến từ Trung Đông Li-băng và cuối cùng là “Thảo nguyên xanh tươi” do ca sĩ Thành Cát Tư đến từ Mông Cổ. Tất cả màn trình diễn đã làm nổi bật thông điệp của phần đầu Lễ bế mạc mang tên “Hãy để tiếng hát của bạn ở lại”.

Phần trình diễn cuối cùng của Lễ khai mạc ASIAD 16 thuộc về nước chủ nhà mang tên “Khải hoàn” với mười giọng ca nổi tiếng là Đàm Vĩnh Ngân, Cổ Cự Cơ, Hoàng Gia Cường, Mã A Vinh, Lưu Đình Đình… Nối tiếp là màn múa lân rồng quen thuộc của người Trung Hoa.

Kết thúc phần văn nghệ Lễ bế mạc, quốc kì, bảng tên cùng với đó là hơn 9000 vận động viên của tất cả 45 Đoàn thể thao tham dự ASIAD 16 vui vẻ sánh vai bên nhau tiến bước trên đại lộ “Khải hoàn” được soi tỏ bởi những ánh sáng lung linh. Sau đó, ngài Sheikh Ahmed Al-Fahad (Chủ tịch Hội đồng Olympic châu Á) đã có bài phát biểu ngắn gọn nhưng sâu sắc để ngợi ca những thành tích của các vận động viên, tinh thần làm việc tậm tụy của các tình nguyện viên, sự năng động của các phóng viên tại kì Á vận hội lần thứ 16. Ông hy vọng tinh thần thể thao cao thượng của Á vận hội, tình bằng hữu, lòng khoan dung và sự hiểu biết được kết tinh tại ASIAD 16 sẽ lan tỏa tới những hoạt động thể thao khác ở châu lục. Sau lời tuyên bố bế mạc của ngài Sheikh Ahmed Al-Fahad, lá cờ của Hội đồng Olympic châu Á từ từ hạ xuống trong giai điệu của bài hát truyền thống của thể thao châu Á. Lá cờ hội đồng Olympic châu Á cùng với ngọn đuốc Á vận hội đã được trao cho ông Song Young-gil (Thị trưởng thành phố Incheon) trong Lễ chuyển giao quyền đăng cai Á vận hội cho thành phố Incheon (Hàn Quốc).

Mười phút tiếp theo là màn trình diễn của các nghệ sĩ đến từ nước chủ nhà của Á vận hội tới mang tên “Incheon chào đón bạn”. Màn trình diễn múa Arirang nổi tiếng kết hợp với màn trình diễn “quốc võ” Taekwondo. Sau đó, nam ca sĩ Bi Rain-biểu tượng của “làn sóng Hàn Quốc” trình diễn bài hát thể loại Dance với những điệu nhảy sôi động mà không kém phần uyển chuyển đã làm nên “thương hiệu” cho K-pop và kết thúc bằng một bản ballad ngọt ngào. Giây phút cuối cùng của Lễ bế mạc cũng là những khoảng khắc cuối cùng của ASIAD 16 là khi ngọn đuốc của Á vận hội vụt tắt sau 15 ngày tỏa sáng.

ASIAD 16 kết thúc, một lần nữa minh chứng cho những bước tiến thần tốc của thể thao châu Á, qua đó để tiếp tục là “ngọn cờ đầu” của thể thao thế giới. Nửa tháng tranh tài của Á vận hội 16 đã qua đi, những nụ cười và cả những giọt nước mắt của hạnh phúc cũng như thất vọng chỉ còn là kí ức không thể nào quên. Hẹn gặp lại sau 4 năm nữa tại thành phố biển xinh đẹp của Hàn Quốc Incheon ở kì Á vận hội lần thứ 17!

BOX:

Bảng tổng sắp huy chương của ASIAD 16
Thứ tự Quốc gia Huy chương vàng Huy chương bạc Huy chương đồng Tổng số huy chương

1 Trung Quốc 199 119 98 416

2 Hàn Quốc 76 65 91 232

3 Nhật bản 48 74 94 216

4 I-ran 20 14 25 59

5 Ca-dắc-xtan 18 23 38 79

6 Ấn Độ 14 17 33 64

7 Đài Loan (TQ) 13 16 38 67

8 U-dơ-bê-ki-xtan 11 22 23 56

9 Thái Lan 11 9 32 52

10 Ma-lai-xi-a 9 18 14 41

… … … … … …

23 Việt Nam 1 17 15 33

HÀM ĐAN

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2010

SỰ THẬT KHÔNG... MẤT LÒNG!

Mới đây, dư luận đã xôn xao khi bãi biển Nha Trang và Mũi Né bị xếp vào thứ hạng thấp trong số 99 bãi biển trên thế giới qua một kết quả công bố trên tạp chí National Geographic Traveler số ra tháng 11 và 12-2010.

Sở dĩ, nhiều người dù không phải “dân phượt” cũng phải lưu tâm đến thông tin trên bởi tổ chức đứng ra xét tuyển là một tổ chức chuyên nghiệp và cực kì uy tín trong lĩnh vực khảo sát địa lý. Tạp chí National Geographic Traveler là một phụ san xuất bản bằng 15 thứ tiếng do Hội địa lý quốc gia Hoa Kỳ-một tổ chức phi chính phủ nổi tiếng trong lĩnh vực khảo sát địa lý trên thế giới với 8,5 triệu thành viên; với các sản phẩm truyền thông của Hội địa lý quốc gia Hoa Kỳ (báo hình, báo viết, báo mạng…) có tới 50 triệu khách hàng thường xuyên theo dõi.

Cuộc bình chọn các bãi biển được tiến hành công khai. 340 chuyên gia thuộc các lĩnh vực bảo tồn, môi sinh, văn hóa… đã cho điểm bầu chọn 99 bãi biển dựa theo 6 tiêu chí được xếp theo thứ tự tầm quan trọng bao gồm: Chất lượng sinh thái và môi trường, tính nguyên vẹn của văn hóa và xã hội, tình trạng của các kiến trúc cổ, tính thẩm mỹ, chất lượng điều hành du lịch; cuối cùng là triển vọng trong tương lai. Kết quả sẽ được xếp vào 5 cấp độ là: “đứng đầu bảng”, “kinh doanh tốt”, “ổn định”, “đối diện với khó khăn” và “đứng cuối bảng”. Bãi biển được cao điểm nhất (84 điểm) nằm ở cấp độ 1 là Bán đảo Avalon thuộc Newfoundland và Labrador (Canada). Nha Trang và Mũi Né được 43 điểm đứng vào cấp độ cuối cùng. Tuy nhiên, điều thú vị nằm ở bảng xếp hạng của National Geographi là 3 bãi biển “đội sổ” đều thuộc về Hoa Kỳ là: bờ biển Bắc New Jersey (36 điểm), vịnh Mississippi (33 điểm) và vịnh Louisiana (24 điểm). Như vậy, chúng ta có thể an tâm về sự công bằng, ở đây không có sự thiên vị nào cả mà tất cả đều dựa vào các tiêu chí khách quan, khoa học.

Sở dĩ, bãi biển Nha Trang bị xếp vào cấp độ cuối bởi sự phát triển quá “nóng” của các công trình xây dựng nhất là khách sạn và quán bar đe dọa cảnh quan hoang sơ của bãi biển. Vệ sinh môi trường của bãi biển Nha Trang cũng “có vấn đề” nổi cộm nhất là chất lượng nước sinh hoạt kém, vẫn xuất hiện rác thải trên bờ biển… Tiêu chí về môi trường và sinh vật cảnh được đề cao xuất phát từ “gu” du lịch của người phương Tây. Những tay “phượt” Tây rất thích đến những nơi càng hoang sơ càng tốt để tận hưởng sự thoải mái trở về với thiên nhiên, tạm thoát khỏi môi trường tù túng của một không gian với công trình chi chít ở đô thị hiện đại. Một “điểm trừ” của Nha Trang là các công trình kiến trúc Chăm cổ chưa có kế hoạch bảo vệ tốt trong đường hướng phát triển du lịch. Lời khen duy nhất của các chuyên gia dành cho Nha Trang là ở các khu resort là có triển vọng nếu có quản lí tốt.

Mũi Né cũng bị phàn nàn tương tự như Nha Trang về vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng của du lịch làm tổ hại đến vẻ đẹp tự nhiên của bãi biển. Cả hai đều cho là phát triển du lịch không bền vững.

Một số người sau khi biết kết quả trên đã phản ứng không tích cực. Nhưng cuối cùng, sự thật này đã không gây mất lòng bởi ngành du lịch Khánh Hòa đã biết lắng nghe, lên tiếng ghi nhận những cảnh bảo của National Geographic và hứa sẽ cố gắng khắc phục những nhược điểm đang tồn tại.Việc phát triển du lịch làm tổn hại đến cảnh quan tự nhiên là nguy cơ đã được báo chí trong nước cảnh báo nhiều lần từ những ví dụ cụ thể. Có nơi làm tốt như cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) nhưng có nơi hiện trạng cảnh quan đã bị biến dạng trầm trọng như chùa Thầy (Hà Nội). Hy vọng từ sự kiện trên, ngành du lịch Việt Nam sẽ rút ra được những kinh nghiệm để đổi mới cách làm du lịch nhằm phát triển bền vững ngành “công nghiệp không khói”.

HÀM ĐAN

Thứ Ba, 23 tháng 11, 2010

THỜI ĐÀM (III): "NHÂN VĂN" KIA CŨNG CÓ BA BẢY ĐƯỜNG

Chủ nghĩa nhân văn bắt đầu từ thời Phục hưng ở châu Âu thế kỷ XVI, nhằm chống lại tư duy của thời kỳ Trung Cổ quá tôn sùng thế lực siêu nhiên mà xem thường vai trò, năng lực con người. Chủ nghĩa nhân văn ảnh hưởng to lớn đến văn chương châu Âu; từ đó, tính nhân văn luôn là là một tiêu chí hàng đầu để đánh giá một tác phẩm văn học. Đặc trưng của tính nhân văn trong văn chương là luôn lấy con người làm trung tâm suy nghĩ nhằm mục đích hiểu biết về con người và tôn giá trị con người bằng lòng tin sâu sắc vào những chiều kích tốt đẹp của con người sẽ ngày càng hoàn thiện.

Từ “quê nhà” châu Âu, chủ nghĩa nhân văn lan tỏa khắp nơi trên thế giới, và nhanh chóng thắng thế tuyệt đối sau vài thế kỷ “bắt rễ” ở những miền đất xa lạ về văn hóa, trong đó có Việt Nam. Điển hình cho sự thắng thế của chủ nghĩa nhân văn có thể lấy ví dụ từ việc đánh giá lại giá trị của kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều ra đời trong một xã hội tư tưởng Nho giáo đang thống trị cho nên từ vua Tự Đức đến các nhà nho cuối mùa đầu thế kỷ XX đa số vẫn xem Truyện Kiều là “dâm thư” và nhân vật Thúy Kiều là… con đĩ. Song, với những “người tân học” tiếp thu tư tưởng nhân văn châu Âu dưới mái trường Pháp-Việt như: Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Hoài Thanh… đều cho Truyện Kiều là kiệt tác bởi tính nhân văn sâu sắc ở thái độ bênh vực con người, lên án các thế lực chà đạp lên nhân phẩm và thông cảm với số phận bất hạnh của nàng Kiều qua câu thơ mang tính nhân văn cao cả: “Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”. Giờ đây, bất cứ ai đọc Truyện Kiều cũng hoàn toàn đồng ý với ý kiến của những “người tân học”.

Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa nhăn văn châu Âu thời kỳ công nghiệp, văn học Việt Nam ở nửa sau thế kỷ XX luôn xem con người như một thực thể duy lý, giải thích được tất cả những gì xảy ra trong con người, kể cả những điều phi lý nhất; qua đó, mô tả con người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội bằng thủ pháp xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình nên các tác phẩm nhiều khi sơ lược và mang tính minh họa như nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng chỉ ra trong bài viết nổi tiếng một thời: “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”. Chủ nghĩa nhân văn luôn được xem là tích cực khi luôn ngợi ca con người trong mọi hoàn cảnh.

Song, khi thế giới bước vào thời kỳ “làn sóng thứ ba”-văn minh hậu công nghiệp, chủ nghĩa nhân văn cũng biến đổi theo. Vẫn đặt con người vào vị trí trung tâm suy nghĩ, song các nhà văn thế giới đã bước đầu nhận ra con người không chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội mà còn có những chiều kích sinh học và tâm linh. Từ đó, một chủ nghĩa nhân văn mới ra đời thay thế dần cho chủ nghĩa nhân văn cổ điển vốn quen chiều nịnh con người. Các nhà văn không còn giữ quan niệm về con người tốt hay xấu một cách rạch ròi nữa mà bản thân trong mỗi con người đều có những cái tốt và cái xấu đan xen với quan niệm không có ai hoàn hảo. Sự nghi ngờ của nhà văn về sự tiến bộ của con người thực ra không phải không có căn cứ, nó bắt nguồn từ những sự kiện có thực. Chẳng hạn, không ai ngờ vào thế kỷ XX, văn minh nhân loại phát triển vượt bậc, ngỡ tưởng con người sẽ sống nhân ái hơn nhưng hóa ra người ta vẫn đối xử với nhau man rợ còn hơn thời Trung cổ như việc tàn sát người Do Thái của phát xít Đức.

Vẫn giữ quan niệm về văn học phải ca ngợi con người một chiều, kèm với thói quen “cái tốt khoe ra, xấu xa đậy lại” nên dễ hiểu vì sao khi các tác phẩm viết về cả “hai mặt” tốt, xấu của con người như truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp bị một số người đọc ở nước ta phản ứng dữ dội. Người đọc thắc mắc: Nhà văn này hẳn là “tâm đen” bởi ông ta toàn viết những điều xấu con người. Thực ra, qua các truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp đã tiệm cận được quan niệm về chủ nghĩa nhân văn mới bằng việc dám nhìn con người qua những khả năng và hạn chế của chính con người. Có thể lấy ví dụ ngay trong đời sống để làm sáng tỏ vấn đề về chủ nghĩa nhân văn mới. Trong đời sống chính trị nước ta, bên cạnh việc biểu dương điển hình tiên tiến “người tốt, việc tốt” còn có việc việc “phê bình và tự phê bình”. Việc “phê bình và tự phê bình” không phải để triệt hạ mà để nhận ra khuyết điểm từ đó khắc phục những yếu kém. Tương tự, nhà văn nào đó khi viết về những cái xấu của con người không nhằm dụng ý bôi xấu hay hạ thấp con người mà để chỉ ra những khuyết điểm, “khoảng tối” của con người, qua đó, giúp “thanh tẩy” tâm hồn y như câu nói dân gian: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”.

Một điều nữa mang tính tự trị của văn chương ở việc thể hiện tính nhân văn trong văn học là nhà văn không chỉ có gửi thông điệp nhân văn “suông” mà anh ta còn phải làm sao để biểu đạt thông điệp nhân văn có tính nghệ thuật để lôi cuốn độc giả đọc trọn tác phẩm. Ai viết văn cũng muốn giúp độc giả suy nghĩ tích cực hơn, nhưng không phải tác phẩm nào cũng trụ lại với thời gian là do thiếu cái phần nghệ thuật viết văn. Viết văn hay cũng là một hành động nhân văn khi giúp văn chương tiến triển. Lười sáng tạo mà chỉ quen viết theo những hình thức cũ là một hành động phản nhân văn.

Mới hay, “nhân văn” kia cũng có ba bảy đường!

HOÀNG BÌNH PHƯƠNG

Thứ Hai, 15 tháng 11, 2010

THỜI ĐÀM (II): MẤT GIÁ!

Cách đây không lâu, tại một Hội đồng chức danh Giáo sư (GS) của một chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta đã không đồng ý trao chức danh Giáo sư cho Phó giáo sư, Tiến sĩ (PGS, TS) X nổi tiếng. Chuyện bầu bán trúng hay trượt là chuyện bình thường. Nếu sử dụng phép thắng lợi tinh thần của nhân vật A.Q thì ngay đến cả các thiên tài thế giới cũng trượt vỏ chuối trong các vụ bầu bán. Nhà văn Honoré de Balzac sau khi viết xong tiểu thuyết Eugénie Grandet vào năm 34 tuổi đã tin nhờ danh tiếng văn học sẽ được bầu vào Viện hàn lâm Pháp. Sự tự tin lớn đến nỗi, Balzac tuyên bố với ông bạn Victor Hugo-người được bầu vào Viện hàn lâm năm 35 tuổi: “Tôi sẽ nã đại bác vào cánh cửa Viện hàn lâm”. Rút cuộc, ông chỉ được hai phiếu, trong đó có một phiếu của Victor Hugo. Năm sau, Balzac lại thành công với tiểu thuyết Lão Goriot và thêm một lần nữa ông lại trượt chức Viện sĩ khi vẫn chỉ giành được hai phiếu bầu.
Việc không trở thành một trong số bốn mươi Viện sĩ của Viện hàn lâm Pháp danh giá cũng không ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp của Balzac. Với gần 90 tiểu thuyết đã viết, Balzac mãi mãi là “Napoleon văn chương” của thế kỷ XIX. Tương tự, PGS X không được chức danh GS cũng không làm thành tựu khoa học của ông bị mất giá. PGS X có lí lịch khoa học đáng phục: bảo vệ TS ở Viện hàn lâm khoa học Liên bang Nga, thành thạo ít nhất 3 ngoại ngữ, viết hàng chục cuốn sách nghiên cứu, các học trò được ông hướng dẫn đều là lứa nhà khoa học trẻ triển vọng… Quan trọng nhất, từ lâu, ông luôn được xem là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu của mình. Tiếng nói khoa học của ông luôn có sức nặng đối với giới trí thức.

Nếu nhìn thực trạng của khá nhiều nhà nghiên cứu chỉ chăm chăm viết nhiều công trình để nhanh chóng đạt tiêu chuẩn phong học hàm GS và PGS trong khi ít chú ý đến chất lượng học thuật. Và sau khi đạt được học hàm thì không nghiên cứu mà dùng học hàm để làm những việc ngoài khoa học. Qua đó, có thể thấy PGS X-một người hiến mình cho việc nghiên cứu thực sự là nhân tài đích thực của khoa học nước nhà.

Việc ông trượt chức danh GS chẳng khác nào tin động trời, khiến rất nhiều người bất bình, kể cả người chẳng quen biết gì PGS X. Nhưng không một tiếng nói khoa học có thẩm quyền đứng ra “bênh” PGS X bởi việc làm đó… không cần thiết! Không khéo khiến người ta lầm tưởng là PGS X quá cay cú nên nhờ người viết bài “phàn nàn”. Bởi lẽ, với những nhà khoa học chân chính điều họ trăn trở là thành quả trong công việc nghiên cứu chứ mấy khi nóng lòng việc phong các học hàm. Và chẳng ai hơi đâu lại buồn vì PGS kém GS như “đầu óc cấp bậc” quan niệm.

Hẳn nhiều người sẽ tự hỏi vì lí do gì mà PGS X bị từ chối học hàm GS? Nguyên nhân chính xác phải hỏi lần lượt 11 vị trong Hội đồng đã bỏ phiếu ngày hôm đó nhưng đến nay chưa có vị nào mở miệng lấy nửa lời giải thích. Dư luận cho rằng PGS X bị trượt là do khuyết điểm trong tính cách và lối sống. Không rõ tích cách và lối sống của PGS X như thế nào để đến nỗi ông bị từ chối GS. Nhưng dù tính cách và lối sống có có tốt hay xấu thế nào đi nữa thì đều thuộc phạm trù đạo đức cá nhân, không liên quan gì đến trình độ khoa học. Việc xét phong GS tất cả chỉ dựa vào các tiêu chí khoa học. Đánh giá đạo đức là do dư luận chứ không phải là việc của các thành viên Hội đồng. Thậm chí, có ý kiến cho rằng, một số thành viên trong Hội đồng ganh ghét sau khi đuối lí với PGS X trong các cuộc tranh luận khoa học nên nhân việc bầu bán đã chơi trò “ném đá dấu tay” để trả đũa. Chuyện này đúng hay không chỉ lương tâm các vị trong Hội đồng tự biết. Việc tranh luận trong khoa học là điều cần thiết, bởi qua mỗi cuộc tranh luận, con người càng tiệm cận chân lý khoa học hơn qua đó giúp giải quyết một số vấn đề về lý thuyết còn vướng mắc. Trong quá trình tranh luận có những điều qua tiếng lại là không tránh khỏi nhưng không vì thế mà lại “để bụng” dẫn đến những việc làm thiếu công tâm. Rõ ràng, hậu thế hôm nay đã thua tiền nhân chí ít ở sự công tâm, nhà phê bình Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam (1942) đã tuyên bố: “… khi xem thơ tôi chỉ biết có thơ”, Hoài Thanh không quan tâm đến việc các nhà thơ có đối xử với mình tốt hay không trong đời thực.

Hành động thiếu công tâm của Hội đồng không làm danh tiếng PGS X mất giá mà chỉ làm tổn hại sự sang trọng của học hàm GS và gián tiếp thể hiện thái độ bạc đãi những nhà khoa học chân chính-những người suốt đời say mê nghiên cứu khoa học. Chẳng lẽ các vị GS, PGS trong Hội đồng với học vấn uyên thâm đã quên những dòng chữ khắc trên bia đá Văn Miếu của đại thần Thân Nhân Trung thời vua Lê Thánh Tông đã viết: “...Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”. Làm tổn hại đến lợi ích chung không những đáng chê mà đã mang trọng tội.

Xét đến cùng, chính Hội đồng nọ mới bị mất giá!

HOÀNG BÌNH PHƯƠNG
(My new pen-name :))

Thứ Bảy, 13 tháng 11, 2010

THƯ MỜI CỘNG TÁC MẢNG VĂN HỌC

Chả là thế này, có một bác phụ trách trang văn học về hưu. Cả phòng chả ai học văn nên em phải gánh. Ờ thì bạn bè văn chương cũng đông nhưng mà vì báo em bao cấp kh bán ở ngoài thành thử chả mấy người ỏ ê gửi bài. Vì vậy, em viết cái thư mời (thực chất là vài điều cần lưu ý) để trước là mời các bác cộng tác; hai là mấy điều lưu ý để hợp với gu báo em.

Thanks!

Vài điều cần lưu ý:

 Về truyện dịch: độ dài thông thường là trên dưới 1.500 chữ, quá lắm không quá 2.000 chữ. Ngoài ra, còn mục cho truyện cực ngắn (dưới 800 chữ).

- Tiểu luận: thông thường 1.000 chữ, quá lắm không quá 1.500 chữ. Các tiểu luận nếu dài thì chỉ trích dịch (nếu không biết đoạn nào hay có thể nói qua để tư vấn nên dịch đoạn nào)

- Thơ thì thấy gì hay cứ dịch nhưng tốt nhất nên dịch các bài cùng 1 tác giả, 1 quốc gia hoặc một trào lưu nào đó…

- Có mục “Nghĩ về nghề”: dịch những suy ngẫm của nhà văn về nghề nghiệp, về một tác phẩm nào đó… (độ dài dưới 1.000 chữ)

- Ghi lĩnh vực sở trường của các tác giả để tìm cho dễ nhưng nếu tìm được tác phẩm nào hay khác thì cứ dịch. VD: V.S Naipaul chỉ viết văn nhưng thử xem ông có bài tiểu luận, thơ hay suy ngẫm về nghề gì không?

- Trước khi dịch nên tìm trên mạng (không cần chú ý xem đã in sách hay không) để xem tác phẩm ấy đã được ai dịch trước chưa? Các bản dịch có thể đã đăng trên mạng nhưng không sử dụng các bản dịch đã đăng trên báo giấy trước đó.

- Nguồn truyện dịch nên tìm ở các tạp chí nào chuyên về văn chương hoặc mục văn chương ở các tạp chí (như ở Pháp tờ Le Figaro có mục văn chương)

- Các bài gửi đến, nhớ ghi số điện thoại (nếu ở HN), ở các tỉnh xa hoặc nước ngoài thì ghi địa chỉ với tên thật trong chứng minh thư để liên lạc thanh toán nhuận bút.



Về các mục khác:

- Thời đàm: viết về vấn đề văn học, văn hóa, xã hội dưới góc nhìn tinh tế kiểu văn chương (dưới 1.200 chữ)

- Tản văn, tạp văn không quá 1.000 từ

- Truyện ngắn sáng tác: dung lượng trên dưới 1500 từ

- Mục “Khơi dòng cổ văn”; nói về một vấn đề nào đó của văn học trung đại Việt Nam (độ dài dưới 1.000 chữ).

- Café sách: điểm sách hay và mới (dưới 1.000 chữ)

….

(Nếu bạn nào có ý tưởng gì xin góp ý)



Địa chỉ nhận bài, giải đáp thắc mắc: hoanghoangqdnd@gmail.com



List nhà văn nước ngoài để tìm kiếm tác phẩm dịch:



Jorge Luis Borges (nhà văn, nhà thơ, nhà tiểu luận)

Italo Calvino (nhà văn, nhà tiểu luận)

Julio Cortazar (nhà văn)

Abe Kobo (nhà văn)

Umberto Eco (nhà văn, nhà tiểu luận)

Joyce Carol Oates (nhà văn)

Jean-Marie Gustave Le Clézio (nhà văn) Nobel Văn học 2008

Claude Simon (nhà văn) Nobel 1985

Michel Butor (nhà văn)

Milan Kundera (nhà văn, nhà tiểu luận)

Linda Le (nhà văn, nhà tiểu luận)

Chinua Achebe (nhà văn)

Jean-Francois Lyotard (nhà tiểu luận)

Trinh Thi Minh Ha (nhà văn Việt viết văn tiếng Anh)

Dinh Linh (nhà văn Việt viết văn tiếng Anh)

V.S Naipaul (nhà văn) Nobel 2001

Haruki Murakami (nhà văn)

Tim O’Brien (nhà văn)

Orhan Pamuk (nhà văn) Nobel 2006

Georges Perec (nhà văn)

Octavio Paz (nhà thơ, nhà tiểu luận) Nobel 1990

Jacques Prevert (nhà thơ)

Raymond Queneau (nhà văn, nhà tiểu luận)

Alain Robber-Grillet (nhà văn, nhà tiểu luận)

Philip Roth (nhà văn)

Tony Morrison (nhà văn) Nobel 1993

Naguib Mahfouz (nhà văn) Nobel 1988

Marcel Proust (nhà văn)

Albert Camus (nhà văn, nhà triết học) Nobel 1957

Nadine Gordimer (nhà văn) Nobel 1991

John Updike (nhà văn)

Amelie Nothomb (nhà văn)

Nathalie Sarraute (nhà văn)

Tristan Tzara (nhà thơ, nhà tiểu luận)

Mario Vargas Llosa (nhà văn, nhà tiểu luận) Nobel 2010

Kurt Vonnegut (nhà văn)

Vương An Ức (Wang Anyi) (nhà văn)

Ludwig Wittgenstein (nhà văn, nhà triết học)

Ryunosuke Akutagawa (nhà văn)

Michel Houellebecq (nhà văn)

Cao Hành Kiện (Gao Xinjian) (nhà văn) Nobel 2000

Derek Walcott (nhà thơ) Nobel 1992

Roland Barthes (nhà tiểu luận)

Jose Saramago (nhà văn) Nobel 1998

Michel Foucault (nhà triết học)

Herta Muller (nhà thơ, văn, tiểu luận) Nobel 2009

Gunter Grass (nhà văn) Nobel 1999

Heinrich Theodor Böll (nhà văn) Nobel 1972

Nelly Sachs (nhà thơ) Nobel 1966

Thomas Mann (nhà văn) Nobel 1929

Gerhart Johann Robert Hauptmann (nhà văn) Nobel 1912

Paul Johann Ludwig von Heyse (nhà văn, thơ) Nobel 1910

Rudolf Christoph Eucken (nhà triết học) Nobel 1908

Christian Matthias Theodor Mommsen (nhà vă, sử gia) Nobel 1902

Carl Spitteler (nhà văn, thơ) Nobel 1919

Hermann Hesse (nhà văn, thơ) Nobel 1946

Elias Canetti (nhà văn) Nobel 1981

Elfriede Jelinek (nhà văn) Nobel 2004

Lâm Ngữ Đường (Lin Yutang) (nhà văn)

Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2010

KHAI MẠC ASIAD 16: NGỠ CHỐN BỒNG LAI

Tuy chỉ là Đại hội Thể thao của một châu lục, nhưng Lễ khai mạc Á vận hội lần thứ 16 tại thành phố Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) không hề thua kém bất cứ một Lễ khai mạc Đại hội thể thao nào trước đó về quy mô hoành tráng; và chắc đã hơn hẳn những Lễ khai mạc khác bởi tính nghệ thuật cao hiện thân cho một vẻ đẹp siêu thực khiến người xem ngỡ tưởng đang ở chốn bồng lai, tiên cảnh.

Khởi đầu cho Lễ khai mạc là màn bắn pháo hoa nghệ thuật xung quanh tháp truyền hình Quảng Châu. Giữa màn đêm sâu thẳm, tháp truyền hình Quảng Châu bỗng bừng sáng như một ngọn đuốc tượng trưng cho tinh thần cao thượng mà mọi hoạt động thể thao đều hướng tới.

Sau màn thượng cờ của nước chủ nhà Trung Quốc là hơn một tiếng đồng hồ diễn ra các tiết mục văn nghệ-thể thao đặc sắc. Lấy cảm hứng từ nước, suốt các trường đoạn của chương trình đều biểu diễn trên sân khấu mở với những dòng nước vây quanh và liên tiếp lặp lại những motif mang đặc trưng, tính chất của nước: dữ dội nhưng nhiều khi cũng thật dịu êm.

Khởi đầu chương trình văn nghệ-thể thao là tiết mục nhạc vũ kịch “Con thuyền đại dương”. Màn nhạc vũ kịch mang tính sử thi hùng tráng ngợi ca những con người thủa hồng hoang từ mảnh đất Quảng Châu tìm đường ra biển lớn. Hơn 500 nghệ sĩ đã trình diễn những màn vũ đạo uyển chuyển khắc họa đạm nét hành trình gian nan của con người đi ra đại dương. Trước muôn vàn khó khăn, nhưng nhờ có tinh thần vươn lên và sự đoàn kết con người đã chiến thắng sức mạnh của biển cả. Những con thuyền từ nơi này đã đi khắp muôn phương; từ đó, vinh danh vùng đất này trở thành nơi xuất phát của “con đường tơ lụa trên biển” và cũng hình thành sự phóng khoáng, tính mở cho nền văn hóa và tính cách cộng đồng của người miệt biển.



Phần hai mang tên “Cánh buồm bạch vân” toát lên tình yêu tự do, khát vọng hòa bình của con người nơi đây. Trên nền tiếng đàn thánh thót của nghệ sĩ piano nổi tiếng Lang Lang và tiếng hát dịu ngọt của mĩ nữ Chương Tử Di, những nghệ sĩ nhào lộn đã ghép hình trên không tạo ra những hình ảnh ấn tượng về cánh chim hải âu tung cánh trên nền hình ảnh nền trời xanh mây trắng hiện lên từ những màn hình khổng lồ. Xen lẫn các tiết mục văn nghệ là những màn trình diễn thể thao đòi hỏi sức mạnh và cả sự khéo léo của con người là bơi lội nghệ thuật, nhảy cầu và mô-tô lội nước.



Kết thúc màn văn nghệ-thể thao là tiết mục mang tên “Lời mời hoa thành”. Quảng Châu còn được gọi là “hoa thành”-thành phố của các loài hoa. Để làm nổi bật vẻ đẹp của thành phố và lòng hiếu khách của Quảng Châu, một màn văn nghệ tạp kĩ đầy màu sắc với gam màu nóng từ sắc phục đỏ, da cam và sôi động bởi âm thanh của hàng trăm tiếng trống đã được trình diễn. Nối tiếp là hình ảnh những nữ thần Bảo Bình-người mang nước trong sạch qua màn múa ba-lê.

Ngay sau các màn văn nghệ-kết thúc là Lễ diễu hành của tất cả 45 Đoàn thể thao tham dự ASIAD 16. Trang những trang phục thể tha khỏe khoắn, bộ vest lịch lãm hay là vận trên người trang phục truyền thống độc đáo, các vận động viên-tinh hoa thể chất và niềm tự hào của các quốc gia đã diễu hành trong tiếng nhạc hân hoan chào đoán của các khán giả dự khán trên lễ đài. Đoàn Thể thao Việt Nam diễu hành ở thứ tự thứ 43, những vận động viên nam mặc vest màu đỏ, vận động viên nữ mặc áo dài truyền thống. Đoàn Thể thao Việt Nam dự ASIAD 16 với 267 vận động viên tranh tài ở 26 trong tổng số 42 môn. Đoàn Việt Nam đặt mục tiêu giành từ 4 đến 6 huy chương vàng ở Á vận hội để lọt vào top 20 trong bảng tổng sắp huy chương. Đây là lực lượng vận động viên đông đảo nhất của thể thao Việt Nam ở một kỳ Á vận hội.

Cuối cùng là những diễn văn của các vị lãnh đạo tỉnh Quảng Đông, Tổng cục trưởng Tổng cục Thể thao Trung Quốc, Hội đồng Olympic châu Á chào mừng các vận động viên và kỳ vọng ở một kỳ Á vận hội thành công tốt đẹp. Giờ khắc quan trọng nhất chính thức mở màn cho ASIAD 16 bắt đầu là khi Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tuyên bố khai mạc ASIAD 16.

Những nghi lễ không thể thiếu được ở các Đại hội thể thao bao gồm: kéo lá cờ Hội đồng Olympic châu Á, lễ tuyên thệ của đại diện của vận động viên và trọng tài. Nghi thức quan trọng nhất chính là thắp sáng đài lửa ASIAD 16 khi được thắp sáng từ loạt bắn pháo hoa.

Lễ khai mạc khép lại để mở ra nửa tháng tranh tài của các vận động viên hàng đầu châu Á. Hy vọng về một kỳ Đại hội thể thao trong sáng, đạt được những thành tích cao trong thi đấu và kết nối tình đoàn kết giữa các quốc gia trong châu lục để của một trang sử mới cho lịch sử Á vận hội.

HÀM ĐAN

THỜI ĐÀM (I): DẤN THÂN

Trong nhiều cuộc bàn tròn văn chương, những người trong cuộc hay đặt câu hỏi: “Tại sao văn học Việt Nam không có tác phẩm có tính nghệ thuật cao hoặc tác phẩm ăn khách?” Lí giải thì đã có nhiều nguyên nhân đã được mổ xẻ nhưng có một nguyên nhân ít người đề cập đó là tính dấn thân trong sáng tạo của nhà văn Việt Nam kém hơn so với đồng nghiệp nước ngoài.

Văn chương hay bất cứ công việc nào khác, nếu muốn có thành tựu để đời nhất thiết cần phải có niềm say mê và dành nhiều thời gian cho công việc lao động. Sự lao động trong văn chương không chỉ có mỗi thao tác viết, trước khi viết phải tích lũy lượng kiến thức khổng lồ để động bút thì dễ dàng như cá bơi trong nước như Dan Brown tác giả tiểu thuyết khoa học tôn giáo bán chạy bởi ông là “mọt sách” ngấu nghiến sách sử, sách nghiên cứu tôn giáo khó nhằn. Nhà văn đã dấn thân vào sáng tạo ít khi tham gia những hoạt động chính trị, kinh doanh… mất thì giờ. Chuyện này có thể gói gọn qua câu nói của nhà văn Nguyễn Quang Sáng: “Viết văn không tập trung là thua”. Vậy nên, các nhà văn chỉ cần tìm một nghề để kiếm sống, lắm khi chẳng liên quan gì đến văn chương như M. V. Llosa (Nobel văn học 2010) có thời làm phóng viên thể thao.

Viết văn không chỉ có chuyện thiệt thòi về vật chất mà đôi khi rất nguy hiểm đến bản thân. Sự dấn thân cho văn chương của một số nhà văn đã vượt qua giới hạn thông thường. Marcel Proust mắc bệnh hen suyễn nhưng vẫn muốn đạt đến sự bất tử nhờ viết văn. Hơn chục năm ông đã viết hàng ngàn trang của tiểu thuyết vĩ đại nhất nước Pháp và có lẽ là của cả thế giới Đi tìm thời gian đã mất. Người ta kể rằng: M. Proust đã kịp sửa lại những trang viết cuối cùng vài giờ trước khi qua đời. Một số nhà văn khác đích thực là thánh tử vì đạo như vào năm 1937, F. G. Lorca (Tây Ban Nha), A. Gramcsi (I-ta-li-a) bị bọn phát xít thủ tiêu vì dám viết thơ văn ca ngợi sự tự do, chống chế độ phát xít. Còn trường hợp ngồi tù hàng chục năm như nhà thơ Nadim Hitmet (Thổ Nhĩ Kỳ) thì đầy rẫy. Vì sự sáng tạo văn chương, xem cái chết nhẹ như lông hồng, dễ hiểu vì sao nhà văn thường xa lạ với những điều bình thường trong cuộc sống gia đình như chuyện ly hôn, sống độc thân… Nhưng với những nhà văn, những “tai nạn” trong đời sống lại là động lực cho nghiệp viết y như điển tích “tái ông thất mã”.

Trên văn đàn Việt đôi khi có nhiều chuyện ngược đời, không ít người còn lấy văn chương làm phương tiện cho những mục đích phi nghệ thuật. Những cây bút trẻ mắc bệnh “sốt ruột nổi tiếng” hay viết tràn, mỗi năm mỗi cuốn để có tiếng nhà tài năng trẻ có thể vượt mặt số đầu sách với cụ Tô Hoài. Vài cây bút khác chẳng còn xuân xanh, viết vài tác phẩm để có tiếng là nhà văn và dùng các danh xưng đó để hù dọa người khác. Nước mình chuộng học vấn, chữ nghĩa nên nghe tiếng người này là nhà văn, người nọ là hội viên hội nhà văn, hoặc là hay xuất hiện trên ti-vi thì phục lắm. Nhưng tài năng, đẳng cấp của nhà văn không phải là việc tham gia hoạt động xã hội “cờ, đèn, kèn, trống” mà nằm trong câu nói cũ nhưng mãi đúng đó là “Nhà văn tồn tại ở tác phẩm”. Danh xưng, giải thưởng chỉ có tính tương đối, cái còn lại mãi là nằm ở trong văn bản những gì mà nhà văn đã, đang và sẽ viết ra.

Thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhiều nhà văn đã dấn thân vào cuộc chiến. Không phải tất cả những nhà văn hi sinh trong chiến tranh đều để lại tác phẩm lớn như Nam Cao, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân… nhưng nếu không dấn thân vào khói lửa, họ sẽ không thể viết được ở thời đại của mình. Ở thời buổi toàn cầu hóa, thách thức của nghề văn là: làm sao viết văn có tính nghệ thuật cao, tạo được dư luận chú ý trong thời buổi văn học bị lép vé so với các phương tiện giải trí khác? Sự dấn thân sẽ nằm ở giữ vững niềm tin: kiên trì cho mục đích sáng tạo, dù gặp trở ngại nào cũng không chuyển hướng.

Các nhà văn lớn ở bất cứ đâu và bất cứ thời đại nào khi viết văn cũng xuất phát sự vô tư, trong trẻo kì lạ. Họ viết về những điều ám ảnh, những niềm tin về những điều tốt đẹp về con người. Ngoài tài năng trời cho và kiến văn thông kim bác cổ, điều mà nhà văn lớn nào cũng có đó là sự dấn thân, hiến mình cho công việc sáng tạo mà không quan tâm sẽ được và mất gì. Được viết và còn viết được với nhà văn là một điều hạnh phúc.

Đòi hỏi điều gì hơn đồng nghĩ với sự tham lam!

HÀM ĐAN

THỜI ĐÀM (I): DẤN THÂN

Trong nhiều cuộc bàn tròn văn chương, những người trong cuộc hay đặt câu hỏi: “Tại sao văn học Việt Nam không có tác phẩm có tính nghệ thuật cao hoặc tác phẩm ăn khách?” Lí giải thì đã có nhiều nguyên nhân đã được mổ xẻ nhưng có một nguyên nhân ít người đề cập đó là tính dấn thân trong sáng tạo của nhà văn Việt Nam kém hơn so với đồng nghiệp nước ngoài.

Văn chương hay bất cứ công việc nào khác, nếu muốn có thành tựu để đời nhất thiết cần phải có niềm say mê và dành nhiều thời gian cho công việc lao động. Sự lao động trong văn chương không chỉ có mỗi thao tác viết, trước khi viết phải tích lũy lượng kiến thức khổng lồ để động bút thì dễ dàng như cá bơi trong nước như Dan Brown tác giả tiểu thuyết khoa học tôn giáo bán chạy bởi ông là “mọt sách” ngấu nghiến sách sử, sách nghiên cứu tôn giáo khó nhằn. Nhà văn đã dấn thân vào sáng tạo ít khi tham gia những hoạt động chính trị, kinh doanh… mất thì giờ. Chuyện này có thể gói gọn qua câu nói của nhà văn Nguyễn Quang Sáng: “Viết văn không tập trung là thua”. Vậy nên, các nhà văn chỉ cần tìm một nghề để kiếm sống, lắm khi chẳng liên quan gì đến văn chương như M. V. Llosa (Nobel văn học 2010) có thời làm phóng viên thể thao.

Viết văn không chỉ có chuyện thiệt thòi về vật chất mà đôi khi rất nguy hiểm đến bản thân. Sự dấn thân cho văn chương của một số nhà văn đã vượt qua giới hạn thông thường. Marcel Proust mắc bệnh hen suyễn nhưng vẫn muốn đạt đến sự bất tử nhờ viết văn. Hơn chục năm ông đã viết hàng ngàn trang của tiểu thuyết vĩ đại nhất nước Pháp và có lẽ là của cả thế giới Đi tìm thời gian đã mất. Người ta kể rằng: M. Proust đã kịp sửa lại những trang viết cuối cùng vài giờ trước khi qua đời. Một số nhà văn khác đích thực là thánh tử vì đạo như vào năm 1937, F. G. Lorca (Tây Ban Nha), A. Gramcsi (I-ta-li-a) bị bọn phát xít thủ tiêu vì dám viết thơ văn ca ngợi sự tự do, chống chế độ phát xít. Còn trường hợp ngồi tù hàng chục năm như nhà thơ Nadim Hitmet (Thổ Nhĩ Kỳ) thì đầy rẫy. Vì sự sáng tạo văn chương, xem cái chết nhẹ như lông hồng, dễ hiểu vì sao nhà văn thường xa lạ với những điều bình thường trong cuộc sống gia đình như chuyện ly hôn, sống độc thân… Nhưng với những nhà văn, những “tai nạn” trong đời sống lại là động lực cho nghiệp viết y như điển tích “tái ông thất mã”.

Trên văn đàn Việt đôi khi có nhiều chuyện ngược đời, không ít người còn lấy văn chương làm phương tiện cho những mục đích phi nghệ thuật. Những cây bút trẻ mắc bệnh “sốt ruột nổi tiếng” hay viết tràn, mỗi năm mỗi cuốn để có tiếng nhà tài năng trẻ có thể vượt mặt số đầu sách với cụ Tô Hoài. Vài cây bút khác chẳng còn xuân xanh, viết vài tác phẩm để có tiếng là nhà văn và dùng các danh xưng đó để hù dọa người khác. Nước mình chuộng học vấn, chữ nghĩa nên nghe tiếng người này là nhà văn, người nọ là hội viên hội nhà văn, hoặc là hay xuất hiện trên ti-vi thì phục lắm. Nhưng tài năng, đẳng cấp của nhà văn không phải là việc tham gia hoạt động xã hội “cờ, đèn, kèn, trống” mà nằm trong câu nói cũ nhưng mãi đúng đó là “Nhà văn tồn tại ở tác phẩm”. Danh xưng, giải thưởng chỉ có tính tương đối, cái còn lại mãi là nằm ở trong văn bản những gì mà nhà văn đã, đang và sẽ viết ra.

Thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhiều nhà văn đã dấn thân vào cuộc chiến. Không phải tất cả những nhà văn hi sinh trong chiến tranh đều để lại tác phẩm lớn như Nam Cao, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân… nhưng nếu không dấn thân vào khói lửa, họ sẽ không thể viết được ở thời đại của mình. Ở thời buổi toàn cầu hóa, thách thức của nghề văn là: làm sao viết văn có tính nghệ thuật cao, tạo được dư luận chú ý trong thời buổi văn học bị lép vé so với các phương tiện giải trí khác? Sự dấn thân sẽ nằm ở giữ vững niềm tin: kiên trì cho mục đích sáng tạo, dù gặp trở ngại nào cũng không chuyển hướng.

Các nhà văn lớn ở bất cứ đâu và bất cứ thời đại nào khi viết văn cũng xuất phát sự vô tư, trong trẻo kì lạ. Họ viết về những điều ám ảnh, những niềm tin về những điều tốt đẹp về con người. Ngoài tài năng trời cho và kiến văn thông kim bác cổ, điều mà nhà văn lớn nào cũng có đó là sự dấn thân, hiến mình cho công việc sáng tạo mà không quan tâm sẽ được và mất gì. Được viết và còn viết được với nhà văn là một điều hạnh phúc.

Đòi hỏi điều gì hơn đồng nghĩ với sự tham lam!

HÀM ĐAN

Thứ Ba, 9 tháng 11, 2010

TRƯỚC GIỜ KHAI MẠC ASIAD16 QUẢNG CHÂU 2010: CHUẨN BỊ HOÀN HẢO

Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 16 (ASIAD 16) sẽ thu hút 11.700 vận động viên đến từ 45 quốc gia và vùng lãnh thổ để tranh 476 bộ huy chương. Với một số lượng vận động viên đông đảo như trên dễ hình dung số lượng khồng lồ cơ sở hạ tầng phục vụ thi đấu bao gồm: 53 nhà thi đấu, 17 nhà huấn luyện độc lập, hình thành bố cục 5 khu nhà thi đấu lớn đa trung tâm, đa chức năng, đồng thời lan toả tới 10 quận trung tâm, 2 thành phố cấp huyện của Quảng Châu và 3 khu vực thi đấu khác như Phật Sơn, Đông Quản và Sán Vĩ. Về quy mô tổ chức có thể xem ASIAD 16 là kì đại hội lớn nhất từ trước đến nay với những công trình hiện đại, hoành tráng.

Công trình quan trọng nhất của ASIAD 16 là SVĐ Olympic Quảng Châu, nơi diễn ra tranh tài ở nhiều nội dung nhất của cả đại hội nhất là môn thể thao “nữ hoàng”: điền kinh. Sân đa năng có sức chứa 80.000 chỗ ngồi này cũng sẽ là nơi tổ chức trận chung kết môn bóng đá nam vào ngày 25-11 tới.

Cung Thể thao trung tâm là một trong những biểu tượng của Đại hội. Bao trùm trên diện tích 100.000 m2. đây được coi là nhà thi đấu đa năng lớn nhất từ trước tới nay với sức chứa 18.000 người. Tại đây sẽ diễn ra các nội dung của các môn thể dục nhịp điệu, billiard snooker.

Nhà thi đấu Nansha là một trong số những sân thể thao đặc biệt nhất của đại hội. Với đường kính 30.236 m2 và thiết kế mái vòm hết sức độc đáo đây sẽ là nơi tranh tài cho 17 bộ huy chương của 2 bộ môn Wushu và Kabaddi trước 8.000 khán giả.

Một công trình khác cần phải nhắc đến là nhà thi đấu thể dục Quảng Châu. Nhà thi đấu có sức chứa 10.000 người sẽ là nơi tranh tài của các môn bóng như bóng bàn, bóng rổ…

Ngoài các công trình thi đấu, các công trình phục vụ cho ASIAD 16 cũng được đánh giá là đạt chất lượng quốc tế với tên gọi chung là “Thị trấn ASIAD GAMES”. Thị trấn ASIAD GAMES được xây dựng trên tổng diện tích 2,73 km2, trong đó có trung tâm báo chí chính (MMC) và làng báo chí (MV) đón khoảng 10.000 phóng viên viết, phóng viên ảnh và truyền hình đã đăng ký đến Quảng Châu thông tin về đại hội. Làng quan chức (OV) với 49 tòa nhà đáp ứng chổ ở cho khoảng hơn 10.000 vận động viên và các quan chức. Làng vận động viên không chỉ đáp ứng các tiện nghi tốt nhất mà còn là nơi khuyến khích, giới thiệu các sự kiện giao lưu văn hóa giữa các nước tham dự.

Theo thông tin của ban tổ chức, mọi nhà thi đấu và các công trình phục vụ cho ASIAD 16 đã sẵn sàng cho nửa tháng tranh tại của đại hội. Như vậy, những người lưu tâm tới ASIAD 16 hoàn tâm yên tâm về một kì Đại hội đã có những yếu tố thành công từ công tác chuẩn bị.

Gần ngày khai mạc ASIAD 16, vấn đề mà nhiều người quan tâm đương nhiên là Lễ khai mạc của nước chủ nhà. Đạo diễn lễ khai mạc ASIAD 16 chính là đạo diễn tài danh Trương Nghệ Mưu-người đạo diễn Lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh 2008. Mới đây, kênh truyền hình CCTV 9 (CCTV News) đã công bố đoạn video về công tác chuẩn bị lễ khia mạc với lời hứa hẹn sẽ cực kì hoành tráng. Theo kịch bản, lễ khai mạc sẽ trải dài từ quảng trường Haixinsha trên đảo Haizhu và dòng Châu Giang với màn kết hợp ấn tượng giữa hiệu ứng ánh sáng và sân khấu nuớc. Kịch bản Lễ khai mạc vừa tôn vinh văn hóa Quảng Châu-điểm xuất phát của “con đường tơ lụa” trên biển; đồng thời có những nét hiện đại với màn nhào lộn, đu dây đẹp mắt. Một điểm nhấn quan trọng là màn biểu diễn của 1.600 võ sư Thiếu Lâm Hồ Nam ở phần cuối chương trình với màn xếp cao 78 m. Lễ khai mạc bắt đầu từ 20 giờ Quảng Châu (19 giờ VN) ngày 12-11.

HÀM ĐAN

Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2010

PHIM TRUYỀN HÌNH "BÍ THƯ TỈNH ỦY": BÀI HỌC CHÍNH TRỊ BẰNG HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT

Nhân vật chính Hoàng Kim trong bộ phim truyền hình Bí thư tỉnh ủy vốn lấy nguyên mẫu của nguyên Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú (cũ) Kim Ngọc (1917-1979)-người tổ chức “khoán chui” nổi tiếng ở thập niên 1970. Vì thế, ngay từ khi chưa lên sóng, bộ phim đã nhận được sự quan tâm của dư luận. Giờ đây, khi bộ phim đã trình chiếu gần 20 tập phim, đã có nhiều phản hồi ngược nhau: người khen hết sức, kẻ chê không tiếc lời. Chuyện khen chê là lẽ thường, nhưng đằng sau lời khen chê có thực sự khách quan và có nhìn dưới góc nhìn thuần túy vị nghệ thuật?

Lực bất tòng tâm

Những lời chê của khán giả tập trung vào vấn đề tạo dựng bối cảnh của phim chưa giống với thực tế nông thôn miền Bắc thập niên 1970, dễ thấy nhất là quần áo. Nhiều người thốt lên: “Sao mà quần áo bần nông mới vậy nhỉ?”. Quần áo trong phim là do bộ phận thiết kế trang phục đảm trách; và lĩnh vực này chưa phải bao giờ là thế mạnh của điện ảnh nước nhà, rõ nhấtlà ở phim lịch sử như: Lục Vân Tiên, Tây Sơn hào kiệt, Ngọn nến hoàng cung… Có lẽ ít người biết đã có tới hơn 5.000 bộ trang phục cho tất cả diễn viên suốt 50 tập phim; rõ ràng, đã là một nỗ lực phi thường. Nếu khán giả cứ kiểu xem phim truyền hình dài dằng dặc mà bắt bẻ tiểu tiết như xem phim truyện nhựa thì chẳng thể nào có phim Việt Nam để chiếu hàng ngày trên ti-vi.

Nói điều này, không phải là “bênh” đoàn làm phim Bí thư tỉnh ủy mà thực tế bất cứ đoàn làm phim hiện nay cũng sẽ phải trải qua tâm trạng “lực bất tòng tâm” như đạo diễn Quốc Trọng từng trải qua khi làm phim Bí thư tỉnh ủy. Bởi lẽ điện ảnh Việt Nam chưa phải là một nền điện ảnh chuyên nghiệp nên các bộ phim chưa thể ngang bằng các nước khác. Với phim truyền hình, vai trò của trường quay tiến độ làm phim sẽ nhanh và đỡ tốn kém hơn. Dựng một trường quay với bối cảnh là nông thôn miền Bắc cách đây vài chục năm là đơn giản nhất so với các thời kỳ khác, vậy mà cũng không có. Dù bộ phận đạo cụ của phim Bí thư tỉnh ủy có nỗ lực tối đa cũng không làm sao ưng ý, nông thôn hôm nay đâu còn giống ngày xưa!

Một điều nữa khiến khán giả chê bộ phim là diễn xuất của diễn viên chưa “nhuyễn”. Quả là sự gấp rút thời gian cộng với những nhân vật quá khứ khiến diễn xuất diễn viên người đời nay có phần gượng gạo; có khi, hơi cường điệu như các nhân vật lãnh đạo tỉnh ủy trong phim hơi suồng sã trong cử chỉ và lời nói như xưng hô “tớ”, “cậu” trong cuộc họp nghiêm túc. Nếu so sánh diễn xuất của diễn viên Dũng Nhi vai bí thư Hoàng Kim thời bao cấp so với vai diễn ông thứ trưởng Cao Đức Cẩm trong phim Chạy án thời kinh tế thị trường thì không có bước chuyển biến nào trong cách biển hiện để làm hiện thân ông bí thư tỉnh ủy.

Một nguyên nhân khác khiến bộ phim hẳn sẽ không thành công trọn vẹn đó là hiệu quả tuyên truyền bởi chính là đề tài của phim. Người xem phim này chủ yếu là những người trung niên, muốn ôn lại kỷ niệm xưa. Phản hồi từ giới trẻ trên dưới 20 quá ít, họ có nhiều phim hợp lứa tuổi để xem, không lẽ phí thời giờ xem phim chính luận kể chuyện… thời xa vắng.

Một nén tâm hương

Những hạn chế của bộ phim ngay từ đầu đoàn làm phim đã biết trước. Thậm chí những khó khăn khi hình thành dự án làm phim cũng đã được tính đến như đạo diễn Quốc Trọng tâm sự: “Chưa bộ phim nào vất vả như Bí thư tỉnh ủy”.

Bản thân đoàn làm phim không có kì vọng lớn lao về tính nghệ thuật trong phim và có lượng người xem lớn để “hút” quảng cáo. Nếu có kì vọng, về khía cạnh chuyên môn, ông Trần Đăng Tuấn (Phó Tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam) lạc quan cho rằng: “Bí thư tỉnh ủy là bộ phim chính luận dài nhất mà VFC (Trung tâm sản xuất phim truyền hình Việt Nam) sản xuất. Bộ phim sẽ mở ra cơ hội chấm dứt thời kỳ xem phim lịch sử nước ngoài”.

Song, mục tiêu mà đoàn làm phim mong mỏi có thể gói gọn qua lời nhắn nhủ của nhà văn Vân Thảo-người viết kịch bản của bộ phim: “Bộ phim không chỉ tái hiện một giai đoạn lịch sử mà lấy chuyện xưa để nói nay. Có một bộ phận lãnh đạo xa rời dân, không hành động vì lợi ích nhân dân. Bộ phim là một bài học chính trị bằng hình tượng nghệ thuật để những người có chức trách soi xét lại bản thân”. Nếu mục đích của bộ phim chính luận như trên thì gần 20 tập phim đã khắc họa được một nhà chính khách đặt lợi ích nhân dân lên trên hết. Và sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến chính nguyên mẫu ông Kim Ngọc. Nhà văn, nhà biên kịch Phạm Ngọc Tiến : “Trong quá trình làm phim, chúng tôi đến mộ cụ Kim Ngọc nhiều lần. Mong cụ phù hộ cho đoàn làm phim và phù hộ đất nước có được nhiều người tài đức như cụ. Bộ phim này như là nén tâm hương gửi đến một con người suốt đời vì dân, vì nước”.

Đành rằng, ý định của đoàn làm phim là tốt đẹp. Song, nếu cứ quan niệm một bộ phim chỉ tuyên truyền một bài học lịch sử một cách trực tiếp mà không chú ý cách thức biểu đạt phù hợp, có tính nghệ thuật thì vô hình trung điện ảnh lại quay về thời kỳ là phương tiện cho tuyên truyền. Khi đó, những luận điểm cần tuyên truyền sẽ khô khan, trở thành bài giáo huấn suông, kết quả phản tuyên truyền khi chẳng ai đoái hoài đến.

HÀM ĐAN

Thứ Ba, 2 tháng 11, 2010

"THAI NGHÉN" LÀN SÓNG MỚI

Nếu nhìn vào danh sách 10 tay vợt nữ hàng đầu thế giới của WTA (Hiệp hội quần vợt nữ) cho đến ngày 1-11 năm nay, có thể nhận ra những ngôi sao kì cựu vẫn đang đứng vị trí “chiếu trên” như: hai chị em nhà Uy-li-am, Kim Craix-tơ, Ê-lê-na Đê-men-ti-ê-va... Song, Top 10 cũng đã xướng tên những vận động viên mới chỉ cập kê tuổi 20 như: Ca-rô-lin Vô-ni-ắc-ki (20 tuổi), Víc-to-ri-a A-da-ren-ka (19 tuổi)... Đặc biệt, tay vợt người Đan Mạch C. Vô-ni-ắc-ki đang là đương kim vô địch thế giới với số điểm 8.035 điểm bỏ xa người thứ 2 là Ve-ra Vô-na-rê-va gần 2.000 điểm.

Chuyện thành danh khi đang ở độ tuổi cắp sách tới trường trong làng banh nỉ chẳng có gì mới. Xưa, Mắc-ti-na Hin-gít từng dành 3 trong tổng số 4 giải Grand Slam của năm 1997 khi mới tròn 17 tuổi. Điểm đáng nói ở bảng danh sách xếp hạng mới nhất của WTA mang trong mình một dự báo về sự ra đời trong tương lai gần của một làn sóng mới các tay vợt nữ. Nhìn sang các tay vợt nam, sự thay thế đã diễn ra sớm hơn khi những tên tuổi trẻ trung như An-đi Mu-rây đã làm người ta quên đi những cái tên từng vang bóng như An-đi Rốt-đích.

Sự thành công trong tương lai của những tay vợt nữ trẻ có một nguyên nhân khách quan là hầu hết các tay vợt hàng đầu hiện nay đều sắp sủa bước sang bên kia sườn dốc của sự nghiệp. Nếu không may bị chấn thương hành hạ như M. Hin-gít năm nào, đời vận động viên đã ngắn ngủi, lại càng ngắn hơn. Điển hình như chị em nhà Uy-li-am; tuy năm nay, cô em Sê-rê-na đã giành cú đúp ở Giải Wimbledon và Giải Úc mở rộng nhưng đó chỉ là khoảng khắc thăng hoa nhờ điểm rơi phong độ. Nếu nhìn suốt năm qua, phong độ của hai tay vợt tuổi 30 đã không còn mạnh mẽ như trước, đặc biệt là cô chị Vê-nớt. Nếu gặp những đối thủ bản lĩnh, có lối chơi thông minh thì hai chị em nhà Uy-li-am thường nhận những thất bại tâm phục khẩu phục. Trường hợp, Kim Craix-tơ vừa mới đánh bại tay vợt số 1 thế giới C. Vô-ni-ắc-ki để giành chức vô địch WTA Championships 2010 vài ngày trước tại Đô-ha (Ca-ta) là điều đặc biệt khi cô từng tuyên bố giải nghệ 3 năm trước. Nhờ sự tập luyện chăm chỉ cộng với kinh nghiệm dày dạn nên cô lấy lại phong độ như xưa và giành vô địch Giải Mỹ mở rộng 2010 hồi tháng 9 vừa qua.

Một điểm đáng chú ý khác, ở hai tay vợt uổi 20 ở top 10 là ở đều đến từ các nước vốn không có tay vợt xuất sắc là Đan Mạch và Bê-la-rút. Trong khi đó, những trung tâm đào tạo quần vợt trẻ có truyền thống trên thế giới như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... hoàn toàn vắng bóng và chưa thực sự thấy tài năng trẻ nào kế cận. Sự trỗi dậy của các quốc gia có tiềm năng về con người và đầu tư bài bản vào phương pháp huấn luyện hẳn sẽ hình thành một thế giới quần vợt đa cực chứ không chỉ tập trung vào một vài cường quốc như trước đây. Điều này chỉ có lợi cho khán giả trong việc thưởng thức quần vợt, bởi mỗi tay vợt thôi chứ chưa nói đến quốc gia đều có những phong cách thi đấu khác nhau.

BOX:

Bảng xếp hạng WTA (tính đến ngày 1-11):

Vị trí Tên Ngày sinh Quốc gia Số điểm

1 Ca-rô-lin Vô-ni-ắc-ki 11-7-1990 Đan Mạch 8.035

2 Vê-ra Vô-na-rê-va 7-9-1984 Nga 6.785

3 Kim Claix-tơ 8-6-1983 Bỉ 6.635

4 Sê-rê-ba Uy-li-am 26-9-1981 Mỹ 5.355

5 Vê-nớt Uy-li-am 17-6-1980 Mỹ 4.985

6 Sa-ma-tha Xtô-xua 30-3-1984 Úc 4.982

7 Phan-séc-ca Xchi-a-vô-nê 23-6-1980 I-ta-li-a 4.935

8 Dê-lê-na Gian-cô-víc 28-2-1984 Xéc-bi 4.445

9 Ê-lê-na Đê-men-ti-ê-va 15-10-1981 Nga 4.335

10 Víc-to-ri-a A-da-ren-ka 31-7-1989 Bê-la-rút 4.235

HÀM ĐAN