Thứ Hai, 30 tháng 8, 2010

TỔ QUỐC TRÊN HẾT!

Chỉ cần học qua cấp 3, bất cứ người Việt Nam nào cũng thấu rõ hoàn cảnh khó khăn như nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa non trẻ ra đời cách đây 65 năm. Để giải quyết các vấn đề dân sinh cần rất nhiều tiền. Nhưng khi đó, ngân hàng Đông Dương đang bị Nhật chiếm chỉ còn hơn 1,2 triệu đồng Đông Dương mà non nửa (586 ngàn đồng) là tiền hào rách còn đồng tiền mới của Chính phủ vẫn chưa ra đời. Thế nên, việc đóng góp của người dân, đặc biệt là các nhà tư sản thực to lớn giúp Chính phủ “vô sản” vượt khó.

Không phải chờ đến khi nước nhà độc lập mà ngay khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh còn trong “bóng tối”, các nhà tư sản đã bí mật ủng hộ. Ngoài tấm lòng yêu nước, đa phần tầng lớp tư sản Việt Nam từ khi ra đời đều bất mãn với chính sách khai thác thuộc địa của Pháp và sau này là Nhật. Các chính sách kinh tế của thực dân đã kìm hãm sự phát triển của tư sản Việt Nam nên trước năm 1945 các doanh nghiệp chỉ ở mức vừa và nhỏ chiếm 1% tổng số vốn và chỉ sử dụng 9% số lao động trong công nghiệp. Thiểu số là vậy nhưng nếu phải thống kê đầy đủ những cái tên và đóng góp của các nhà tư sản cho Chính phủ thời kỳ lập nước cộng hòa phải là một cuốn sách dày dặn của các nhà làm sử chuyên nghiệp.

Nói đến nhà tư sản yêu nước, một trong những người nổi tiếng còn lưu lại ngày nay là ông Đỗ Đình Thiện (1904-1972). Ông không phải là người đóng góp nhiều nhất trong Tuần lễ vàng và Quỹ Độc lập nhưng lại là người đóng góp tất cả những gì làm ra cho cách mạng và sau năm 1954 là viên chức nhà nước nhưng không hề lấy lương.

Ông Thiện đi du học ở thành phố Toulouse đã gia nhập Đảng cộng sản Pháp và sau đó bị trục xuất vì tội rải truyền đơn vào năm 1932. Cho nên, không khó để cắt nghĩa hành động vào tháng 8-1943, ông đưa 3 vạn đồng Đông Dương cho người phụ trách tài chính Đảng là Nguyễn Lương Bằng khi trong tay chỉ có 24 đồng. Cũng trong năm 1943, ông còn đưa cho ông Nguyễn Tạo (sau này là Phó Chủ nhiệm Ủy ban nông nghiệp trung ương) 2 vạn đồng.

Theo sắc lệnh số 4 ngày 4-9-1945 do chủ tịch Hồ Chí Minh kí đã cử ông bà Đỗ Đình Thiện “làm phụ trách Quỹ trung ương ở Hà Nội” trong Tuần lễ vàng. Để có thể vận động những bạn làm ăn ủng hộ cách mạng, bản thân ông bà Thiện đã làm gương khi ủng hộ 10 vạn đồng (trị giá 4 kg vàng) vào Quỹ Độc lập và 100 lạng vàng vào Tuần lễ vàng. Đặc biệt, ông Thiện còn bỏ ra 1 triệu đồng bức tranh vẽ Bác vào ngày 23-9-1945 rồi sau đó tặng lại cho Thành phố Hà Nội để rước chân dung Bác biểu dương lực lượng cách mạng.

Năm 1946, trước nhu cầu in tiền, ông Thiện bỏ tiền mua nhà in Taupin (nay là số 5 Lê Duẩn-Hà Nội) tặng cho chính phủ. Khi quân Pháp chiếm lại Hà Nội, nhà máy in tiền chuyển về đồn điền Chi-nê mà ông Thiện mua từ năm 1943 với giá 2 ngàn lượng vàng từ tỉ phú Pháp Bô-ren. Chính đồn điền này sản xuất 200 tấn thóc đã nuôi đoàn quân chiến khu II mùa 1946-1947. Ngày 24-2-1947, sau khi đồn điền bị ném bom, ông bà Thiện giao lại đồn điền cho Đảng quản lí còn hai ông ba lên chiến khu làm việc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem gia đình ông như người nhà bởi chính sự đóng góp vô tư của ông Thiện. Khi ông đau ốm rồi qua đời, những người đứng đầu Đảng và nhà nước luôn đến thăm viếng.

Nhưng không phải trường hợp nhà tư sản có đóng góp cho cách mạng như ông Thiện cũng được công nhận bởi những lí do khách quan. Nhờ sự giới thiệu của anh Trần Kiến Quốc (con tướng Trần Tử Bình) mà đại tá Nguyễn Duy Thành đã đồng ý kể câu chuyện về người cha là ông Nguyễn Duy Thân (1917-1952) và những câu chuyện liên quan đến nhà các nhà tư sản ủng hộ cho cách mạng chưa được chứng nhận.

Trước khi bị bị đi tù Sơn La vào năm 1941, ông Thân-vốn sinh ra trong gia đình buôn bán đã bí mật vận động nhiều nhà tư sản ủng hộ cách mạng. Đến khi Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở Hà Nội, ông được cử làm 1 trong 5 ủy viên Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội. Ông thuyết phục những người quen như cụ Tam Kỳ, cụ Hương Sang, ông thủ bạ Tuân… hiến tiền và tài sản cho chính quyền non trẻ. Trong đó, trường hợp vận động thành công nhất người họ hàng cùng quê Đình Bảng (Bắc Ninh) là cụ Tam Kỳ (tên thật là Nguyễn Hữu Nhâm). Có lần, để tránh mật thám Pháp theo dõi, ông Nhân phải rút tấm sét 10 vạn đồng Đông Dương cho người em tham gia cách mạng, đợi rút tiền xong, ông mới đăng báo kêu mất tấm séc. Hòa bình lập lại, ông Nguyễn Hữu Nhâm đã đứng ra huy động giới thương nhân Hà Nội mua lại nhà máy Da Thụy Khuê với giá 2 triệu đồng tiền Đông Dương. Sau này, ông Nhâm đã được nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, Bằng gia đình có công với nước.

Người chứng nhận công với nước cho ông Nhâm không phải là ông Thân bởi ông Thân đã mất đột ngột khi học ở Trung Quốc năm 1952. Vì thế, nhiều người ủng hộ bí mật cho cách mạng thông qua ông Thân đều không có người chứng nhận. Một chuyện lạ kì khác là bản thân ông Thân là Đại biểu quốc hội khóa I nhưng ông không có một giấy chứng nhận có công với nước vì vợ của ông là bà Phan Thị Sang (1919-2010) cũng là Đại biểu quốc hội khóa I không muốn làm hồ sơ để xin công nhận cho chồng! Theo sự lí giải của Đại tá Nguyễn Duy Thành vì cụ bà không muốn mang tiếng là “công thần”.

Trong những ngày màu thu cách mạng, có những người đóng góp thầm lặng cho sự độc lập của nước nhà những mãi tới hơn nửa thế kỷ sau mới được công nhận. Đó là trường hợp của vợ chồng ông Nguyễn Dực và bà Lê Thị Tý.

Ông Nguyễn Dực (1921-2000) vốn là con trai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Trước năm 1945, ông là chủ cửa hàng Nguyễn Dực Radio ở 43 Hàng Bài. Dù giàu sang nhưng ông vẫn tự nguyện tham gia cách mạng và đóng góp số tài sản cá nhân rất lớn thời bấy giờ là các thiết bị âm thanh hiện đại nhất thời mua từ Kong Kong, Singapore. Ngày 17- 8, mít-tinh tại Nhà hát Lớn, không chỉ Nguyễn Dực làm công việc phụ trách âm thanh mà người vợ ông Dực là bà Lê Thị Tý đang có mang 7 tháng chính là chủ nhân của lá cờ đỏ sao vàng lớn nhất cho buổi lễ (34,5 m2).

Ngày 25-8-1945, ông Dực là người đầu tiên đọc trước micro câu: “Đây là Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. Phát thanh từ Hà Nội, trên làn sóng điện 41 mét”. Đó là thời khắc đánh dấu sự ra đời của Đài Tiếng nói Việt Nam.

Đến ngày 2-9-1945, ông Nguyễn Dực chịu trách nhiệm phụ trách âm thanh cho buổi lễ Độc Lập. Ông chuẩn bị 3 micro để đề phòng có bất trắc trong đó chiếc micro ở giữa 4 mặt hiệu Phillips là cái micro tốt nhất. Thật may là nó đã hoạt động tốt. Để âm thanh truyền xa, ông Dực sử dụng một lượng dây điện rất lớn kéo dài từ vườn hoa Ba Đình đến nhà thờ Cửa Bắc và vườn hoa Lê-nin bây giờ.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Nguyễn Dực đem tài sản riêng đóng góp xây dựng Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Ông sống lặng lẽ đến cuối đời; cho đến năm 1996, nhân một bài báo trên tờ Người cao tuổi, các cơ quan chức năng mới biết đến những việc làm của ông Dức hồi năm 1945. Năm sau, ông được công nhận cán bộ tiền khởi nghĩa.

Ba câu chuyện với những hoàn cảnh và sự đóng góp khác nhau của các nhà tư sản yêu nước chắc đã đủ để phác qua tinh thần của một lớp người bỏ qua quyền lợi và no ấm của cá nhân để đặt lợi ích của Tổ Quốc lên trên hết.

HÀM ĐAN

HÀNH TRÌNH QUỐC CA VIỆT NAM

(Sau khi kiểm duyệt, kết luận: Bài quá nhạy cảm nên không được lên báo!:))

Nhiều bạn trẻ sinh trong thời bình, hẳn sẽ lấy làm ngạc nhiên nếu biết tác giả quốc ca Tiếng gọi công dân của Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) lại là nhạc sĩ Lưu Hữu Phước-một nhạc sĩ trọn đời đi theo lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Sự trớ trêu này không lỗi của riêng ai mà chẳng qua là hệ quả những nối tiếp các biến động chính trị ở Việt Nam trong suốt thế kỷ XX dẫn đến sự ra đời của nhiều chính quyền dẫn đến tình trạng trong một vùng lãnh thổ có nhiều bản quốc ca.

Nước Việt tiền hiện đại dưới sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cũng sử dụng âm nhạc là một phần thiết yếu của lễ giáo nhà nước. Buổi lễ quan trọng nhất được của các vương triều phong kiến cử hành là lễ tế Nam Giao. Ở đó, vua làm chủ tế làm lễ tế trời-biểu trưng chúa tể vạn vật. Thời Nguyễn, bản nhạc Đăng đàn cung được dùng cho lễ tế Nam Giao. Ngoài ra, bản nhạc cũng được dùng cho các đám rước trang trọng khác. Đăng đàn cung mang tính biểu trưng trong nghệ thuật thanh sắc Việt Nam thể hiện trước hết ở nghuyên lý đối xứng, hài hòa: không có nhịp lẻ mà chỉ có nhịp chẵn (2, 4 phách); từng câu nhạc cũng chia thành các ô chẵn một cách cân đối. Điều này tạo cho bản nhạc đều đặn, trang nghiêm khó được người hiện đại quen nghe nhạc phi cung thể tiếp nhận. Đăng đàn cung vốn không lời, thường được phường bát âm cử tấu với chủ âm từ tiếng kèn và sáo trúc theo đúng mô hình âm nhạc thời Đại Việt. Sau này, bản nhạc được đặt lời với ca từ tính hài hòa nói về sự cân bằng theo thuyết thiên mệnh: “Kìa là núi vàng bể bạc. Có sách trời, sách trời định phận…”. Đăng đàn cung được một số người Việt xem như nhạc mang tính quốc gia. Tuy nhiên, bài hát vốn mang đậm văn hóa Trung Hoa rút cục bị lãng quên như bao nhiêu nét văn hóa truyền thống phong kiến Việt Nam để nhường chỗ một thể loại nhạc phương Tây, đó là hành khúc.

Nếu nói thể loại nhạc phương Tây ảnh hưởng tới âm nhạc Việt Nam hiện đại nhiều nhất chắc chắn phải là hành khúc. Hành khúc là đoạn nhạc có nhịp đều mạnh vốn được sử dụng nhiều nhất ở các ban nhạc quân đội lúc diễu binh. Hành khúc có thể viết trên nhiều loại nhịp khác nhau nhưng phổ biến nhất là nhịp 4/4 và 2/2.

Tiếp xúc với âm nhạc của thế giới phương Tây, thế hệ “ông Tây An Nam” lẽ dĩ nhiên cảm thấy ấn tượng với các ca khúc với nhịp quân hành mạnh mẽ như La Marseillaise (Bài ca những người Marseille), La chanson du départ (Bài hát lên đường)... Những nhà cách mạng cảm thấy khí thế hào hùng sực sôi toát ra từ những bản hành khúc thúc giục họ nổi dậy chống ngoại bang. Vào năm 1930, những bài hát cách mạng như bài Rot Front (Mặt trận đỏ) của Đức, bài Bandiera rossa (Bài ca cờ đỏ) của Ý và kể cả bài La Marseillaise đã được đặt lời Việt.

Sự sáng tạo hành khúc Việt chỉ ra đời từ nhóm sinh viên miền Nam ra học ở Viện đại học Đông Dương gồm: người viết nhạc Lưu Hữu Phước và hai bạn soạn lời là Mai Văn Bộ và Nguyễn Thành Nguyên. Nghe những tin tức về Khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ khởi nghĩa đều trong năm 1940, “bộ ba” liền sáng tác chung bài Quốc dân hành khúc (La Marche des Étudiants) với lời tiếng Pháp của Mai Văn Bộ. Quốc dân hành khúc chịu ảnh hưởng từ các đặc điểm phong cách và giai điệu với La Marseillaise-hình mẫu của hành khúc châu Âu. Dương Đức Hiền-Chủ tịch Tổng hội sinh viên gợi ý “bộ ba” viết lời ca mới để thành bài hát chính thức cho sinh viên. Năm 1942, lời mới chính là bài hát Tiếng gọi sinh viên trở thành bài hát chính thức của Viện đại học Đông Dương và phổ biến khắp Việt Nam như một tiếng gọi yêu nước đối với lớp thanh niên.

2 năm sau, Văn Cao-nhạc sĩ mới 21 tuổi đã nổi danh với các ca khúc lãng mạn như: Trương Chi, Bến xuân, Buồn tàn thu, Thiên thai… đã âm thầm sáng tác bài hát cho Việt Minh trên căn gác số 45 Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội) trong bối cảnh đồng bào của ông đang chết đói đầy đường. Khi ấy, Văn Cao không biết rõ lực lượng Việt Minh. Văn Cao chỉ chủ ý viết một bài hát giản dị sao cho những người lính Việt Minh có thể hát được. Văn Cao viết trên sự tưởng tượng cho cả đoàn quân và cho cả đất nước tương lai. Tiến quân ca của Văn Cao không khác La Marseillaise với những khung cảnh, hình ảnh của lá cờ pha máu, trở thành tiếng gọi cho nhân dân tập hợp thành quân đội với tinh thần yêu nước. Tiến quân ca nhanh chóng trở thành bài hát chính thức của Mặt trận Việt Minh. Ngày 18-8-1945, tại Hội nghị ở Tân Trào, Việt Minh là tuyên bố Tiến quân ca là quốc ca.

Trước đó một ngày, tại cuộc mít tinh trước Nhà hát Lớn Hà Nội, lễ kéo cờ triều đình và trình bày bài Đăng đàn cung diễn ra. Vài phút sau, những đội viên Việt Minh đã đã phất cờ đỏ sao vàng từ ban công nhà hát và kéo hạ cờ triều đình và chiếm lấy diễn đàn cùng micro. Những người Việt Minh khác đứng trong đám đông khán giả tổ chức hát hai bài Tiến quân ca và Diệt Phát xít.

9 ngày sau, một đoàn người Việt Nam gồm ban nhạc lính tập hợp trước doanh trại nơi đoàn đại biểu của quân đồng minh. Ban nhạc cử lần lượt quốc ca các nước đồng minh và cuối cùng là quốc ca của chính quyền mới. Theo lời kể của nhân viên OSS (tiền thân của CIA) là đại tá Archimedes Patti, chỉ huy quân đội Việt Minh là Võ Nguyên Giáp có mặt nói với ông rằng: “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam lá cờ của chúng tôi được trưng trong một buổi lễ quốc tế và quốc ca của chúng tôi được chơi vì sự kính trọng đối với một vị khách nước ngoài. Tôi sẽ nhớ mãi giây phút này”.

Cùng thời gian này, Đảng Đại Việt và Quốc Dân đảng hợp nhất với nhau và vào tháng Mười Một 1945 đã quyết định lấy bài hát Việt Nam minh châu trời đông của Hùng Lân là bài đảng ca. Nhưng sự thắng thế của Việt Minh đã đưa Tiến quân ca trở thành Quốc ca vào ngày 8-11-1946. Trước đó vài tháng, một nhóm địa chủ và doanh nhân người Việt ở miền Nam thân Pháp thành lập Nam Kỳ Cộng Hoà Quốc. Một đoạn lời dịch trong tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn từ thế kỷ 18 làm quốc ca.

Ngày 6-6-1948, với sự trợ giúp của Pháp, Nguyễn Văn Xuân và Bảo Đại thành lập một chính phủ lâm thời. Cố vấn Nguyễn Tôn Hoàn-bạn đồng môn y khoa với Lưu Hữu Phước đề xuất dùng Thanh niên hành khúc với việc thay từ “công dân” cho từ “thanh niên”. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước phản đối trên tờ Văn nghệ số 3 (6&7-1948) việc “chính phủ bù nhìn” dùng nhạc phẩm của ông để “buôn dân bán nước”. Năm 1956, Quốc hội Việt Nam cộng hòa đã tổ chức một cuộc thi nhằm tuyển chọn một quốc ca mới bởi vì tác giả bản quốc ca hiện tại đứng về phe Cộng sản. 30 bài hát đã được gửi đến cuộc thi nhưng bài ca của Lưu Hữu Phước vẫn là quốc ca của miền Nam Việt Nam cho đến năm 1975.

Sự phức tạp chưa dùng ở đây. Trước khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã được đề nghị viết một bài hát về một cuộc cách mạng miền Nam. Bài hát Giải phóng miền Nam được diễn lần đầu trong một buổi phát thanh trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam tháng 12-1960. Việc giữ bí mật được tuân thủ tuyệt đối đến nỗi Lưu Hữu Phước phải lấy bút danh ghi là Huỳnh Minh Siêng. Bài hát đã được gửi vào Nam ngày 19-12-1960 và nhanh chóng được công nhận đây là bài hát chính thức của Mặt trận. 9 năm sau, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam lấy bài Giải phóng miền Nam làm quốc ca của chính phủ mới.

Hai bản quốc ca tồn tại lâu nhất ở trong thế kỷ XX đã bị sửa ca từ nhiều lần. Riêng bài Tiếng gọi công dân gần 10 lần sửa, có lần không rõ người sửa là ai! Bài Tiến quân ca sửa căn bản vào tháng 9-1955. Như câu thứ bảy “Thề phanh thây uống máu quân thù” (bản năm 1944) được đổi thành “Vì nhân dân chiến đấu không sờn” để tránh hiểu lầm không đáng có về bản chất quân đội cách mạng.

Sau khi thống nhất đất nước, trên trang nhất báo Nhân dân (3-7-1976) in bài Tiến quân ca không đề tên tác giả đi cùng Nghị quyết số 5 công bố quốc ca của nước có tên mới Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bài Tiến quân ca. Nhưng vào năm 1980, điều 144 của Hiến pháp ghi: “Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội thông qua”. Thế nên, số báo Nhân dân (28-4-1981) thông báo cuộc thi chọn quốc ca mới. Từ 19-5 đến 19-12-1981, ban tổ chức đã nhận được 1420 tác phẩm của 1181 tác giả. 74 tác phẩm được chọn qua vòng một. Sau vòng hai, chỉ còn 17 bài hát và được hoà âm, dàn dựng, thu âm ở ba dạng: đơn ca, tác phẩm nhạc không lời và đồng ca.

Sau khi 17 bài hát được chọn vào chung khảo được truyền đi khắp Việt Nam, một vòng tuyển chọn thu hẹp lại lấy 5 bài để Quốc hội bầu chọn. Từ lúc này, không có thêm đề cập nào về cuộc thi chọn quốc ca mới trên báo chí. Và cuối cùng vào năm 1992, điều 143 Hiến pháp đã phê chuẩn: “Quốc ca của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài “Tiến quân ca”.

HÀM ĐAN

Thứ Ba, 17 tháng 8, 2010

LỜI ĐÁP CỦA NỮ GIỚI

Năm 1975, một kênh truyền hình Pháp đề nghị các nhà làm phim nữ làm một bộ phim 7 phút để trả lời cho câu hỏi: “Qu’est ce qu’ être femmes?” (Làm thế nào nhận biết sự hiện hữu của phụ nữ?). Ngay lập tức, nữ đạo diễn Agnès Varda (sinh năm 1928) liền thực hiện bộ phim ngắn Réponse de femmes: Notre corps, notre sexe (Lời đáp của nữ giới: Thân thể chúng tôi, giới tính chúng tôi) như để chinh phục một cách nghệ thuật “đề bài” hóc búa đã cho sẵn. Đó cũng là mục tiêu của chuỗi phim “Điện ảnh nữ” của chương trình VIDEO ART VIDEO của trung tâm DOCLAB tại Viện Goethe Hà Nội (58 Nguyễn Thái Học, Hà Nội) muốn truyền tải cho những người đang và sẽ thực hiện phim nghệ thuật tại Việt Nam.

Về mục đích, với dung lượng chưa đến 10 phút, bộ phim Lời đáp của nữ giới: Thân thể chúng tôi, giới tính chúng tôi khá giống như một đoạn phim quảng cáo đồ điện tử hoặc một đoạn phim tuyên truyền kiểu như kêu gọi người đời không nên hút thuốc lá. Đi tìm một hình thức biểu đạt thích hợp để “nhấn” những dấu hiệu chứng tỏ sự hiện hữu của giới nữ không phải là dễ. Cần lưu ý rằng: Quãng thời gian thập niên 1970, dư âm của cuộc cách mạng tình dục tháng 5-1968 vẫn còn tồn tại, phong trào nữ quyền đòi sự bình đẳng giữa nam và nữ lan khắp phương Tây nên rất dễ khiến đạo diễn rơi “cạm bẫy” là “ngoa dụ” về quyền năng phái nữ bằng một khẩu khí độc thoại, lên lớp và rao giảng. Đó là điều tối kị trong kiểu “phim tuyên truyền”. Đạo diễn Agnès Varda đã tỏ ra “cao tay” khi trả lời câu hỏi triết lí bằng những thủ pháp hiện đại và mới mẻ so với nghệ thuật điện ảnh những năm 1970.

Đầu tiên các nhân vật trong phim không phải là diễn viên chuyên nghiệp mà chỉ là người phụ nữ bình thường. Máy quay thường đặt cố định để những người phụ nữ trả lời trực tiếp trước ống kính khiến bộ phim đạt đến sự tự nhiên và tối giản. Tuy vẫn là phim có đóng diễn nhưng thoáng xem có cảm tưởng đây là phim tài liệu không đóng diễn khi những phụ nữ bình thường tự nói về 2 điểm khu biệt phụ nữ với đàn ông: thân thể và giới tính. Chính hai tiêu điểm này là mạch chính của bộ phim nối kết với các hình ảnh phi tuyến tính của một bộ phim không có cốt truyện và nhân vật chính từ sự phát triển thể chất và tâm sinh lí của phụ nữ theo thời gian.

Triết lí bộ phim được đẩy cao bởi những lời thoại đề thẳng trực tiếp đến sự bất công trong nhận thức xã hội dành cho phụ nữ bằng ví dụ từ đời sống vừa quen vừa lạ nhưng có sức lay động lớn. Chẳng hạn, một phụ nữ cho rằng việc lấy cơ thể phụ nữ so sánh với sự vững chải của bàn ghế trong một áp phích quảng cáo là một hành vi khiếm nhã, không văn minh. Tính trực tiếp cũng được triệt để khai thác với phương châm “chỉ vào trực tiếp sự vật” bằng những khung hình cận cảnh trực tiếp vào cơ thể phụ nữ nude để làm nổi bật vấn đề cơ thể và giới tính. Phong cách làm phim này khiến các nhà phê bình xếp Agnès Varda vào bậc tiền phong của trường phái Làn sóng mới Pháp cũng với các nhà làm phim và nhà văn đổi mới như Alain Resnais, Chris Marker, Marguerite Duras, Alain Robbe-Grillet…

Đổi mới về hình thức triệt để nhưng đạo diễn không quên nhiệm vụ đòi sự bình đẳng của phụ nữ khi để chính những người đàn ông-những người từ xưa đến nay bằng mọi cách định-nghĩa-phụ-nữ như cách lập thuyết của nhà nữ quyền Pháp Simone de Beauvoir (1908-1986) đã thay đổi nhận thức: “Cần phải thay đổi lại từ đầu”. Vậy là, một thể loại phim tưởng chừng như công thức và khuôn sáo lại được phát huy hiệu quả biểu đạt bằng một nghệ thuật điện ảnh bậc thầy. Bài học cho những người làm phim trẻ và khán giả Việt Nam là không có đề tài nào là không thể làm thực hiện và mọi chất liệu đều có hể trở thành nội dung có tính nghệ thuật nếu như có tài năng sáng tạo của những người sản xuất.

HÀM ĐAN

Thứ Hai, 16 tháng 8, 2010

NỖI NIỀM CON RỂ NHÀ VĂN VŨ TRỌNG PHỤNG

Đến thăm Khu tưởng niệm và mộ phần nhà văn Vũ Trọng Phụng phải vượt qua đoạn đường Láng ngày đêm người qua như mắc cửi. Sau vài phút luồn lách trong những ngõ hẹp vốn là đường làng Mọc xưa, hẳn nhiều khách tham quan không ngờ lại lọt vào một không gian thanh vắng đến mức cô tịch.

Khuôn viên rộng hơn 200 mét vuông quả là yên nghỉ lí tưởng của nhà văn quá cố; nhưng nơi đây là nơi sinh sống của con rể và các cháu chắt của văn sĩ họ Vũ. Ông Nghiêm Xuân Sơn-con rể nhà văn cho hay: “Đặt mộ ông cụ trong vườn nhà là tôi học theo người Nam Bộ đấy. Ở miền Bắc, chẳng ai làm thế”. Không chỉ vượt qua sự kiêng kị tập quán, ông Sơn thậm chí đã từng phải vượt qua sự dị nghị người thân để lo cho người bố vợ ông chưa từng gặp lúc sinh thời. Người ngoài văn giới chỉ cần nhìn những hiện vật phong phú liên quan của đến tác giả Số đỏ đã đủ cảm nhận tình cảm của ông Sơn vượt trên quan hệ thông thường của con rể đối với bố vợ.

Dễ cũng đến hơn 2 năm không gặp ông Sơn, trông ông có vẻ yếu; quả là thời gian chẳng tha một ai, thoắt cái ông Sơn sắp sang tuổi 75. Nhưng mọi sự mệt mỏi của thể xác dường như biến mất, ông trở nên sôi nổi, hoạt bát hẳn lên khi nói về người bố vợ thiên tài. Ông hơi buồn khi cho biết: Chẳng rõ Khu tưởng niệm có được công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa trước ngày Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội hay không? Đây không phải là lần đầu ông mong mỏi việc chứng nhận Khu tưởng niệm thành là di tích; nhân dịp Đại lễ, ông Sơn lại đưa ra đề nghị một lần nữa, lập tức được dư luận ủng hộ. Lâu nay, các nhà nghiên cứu văn học trong và ngoài nước đã đánh giá Vũ Trọng Phụng là nhà văn số một sáng tác trên chất liệu là đời sống và con người Hà thành trước năm 1945. Chính quyền địa phương, Hội nhà văn Việt Nam đã gửi văn bản tới các cơ quan chức năng để sớm công nhận Khu tưởng niệm. Gia đình nhà văn chỉ xin chứng nhận, đất đai cùng mọi cơ sở vật chất gia đình vốn lâu nay đã tự lo lấy không nhờ vả tới nhà nước. Dẫu không hài lòng về sự chậm trễ nhưng ông Sơn vẫn đề nghị nếu có khó khăn thì gia đình sẽ giúp bởi chỉ một khi được công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa đồng nghĩa với việc không ai có quyền xâm phạm vào nơi yên nghỉ của nhà văn.



Ông Sơn luôn lo sợ công sức lâu nay sẽ uổng hoài bởi những người không hiểu biết hoặc không tha thiết với di sản văn hóa. Ông Sơn nhắc lại những câu chuyện không vui về những Khu tưởng niệm của các văn sĩ nổi tiếng trở nên tiêu điều do người thân ở xa không có điều kiện chăm lo. Ông cũng sợ bi kịch nhà cụ Vương Hồng Sển trong thành phố Hồ Chí Minh bị hư hại sau khi giao cho cơ quan thiếu trách nhiệm. Theo ông Sơn, tốt nhất Khu tưởng niệm vẫn để gia đình quản lí như vậy mới có điều kiện bảo vệ và phát triển. Ông cũng nhắc lại việc kiên quyết từ chối không để Khu tưởng niệm trở thành điểm du lịch thu tiền.

Kinh phí đầu tư cho Khu tưởng niệm lâu nay vẫn lấy ở nhuận bút tái bản tác phẩm của nhà văn. Ông Sơn tiết lộ kế hoạch xuất bản lại Toàn tập Vũ Trọng Phụng với sự bổ sung phần chưa chính xác hoặc còn thiếu từ những bản gốc mới được các nhà văn bản học phát hiện. Đó là một trong nhiều việc làm tới đây liên quan đến Khu di tích. Như để chứng minh cho lời nói của mình, ông Sơn dẫn khách tới gian trưng bày mới tạm gọi là “Vũ Trọng Phụng với hôm nay” để đặt những cuốn sách, những bức ảnh mới nhất liên quan đến khu di tích. Ông say sưa kể về lai lịch từng bức ảnh như một hướng dẫn viên mới vào nghề. Những người khác cũng mải mê trong những di sản của kí ức mà quên mất tuổi đời của người con rể nhà văn Vũ Trọng Phụng…

HÀM ĐAN

Thứ Ba, 10 tháng 8, 2010

ĐƯỜNG TÌNH HAI LỐI...

Cùng với thành công trong diễn hài, Nhà hát Tuổi trẻ đang tự khẳng định là nhà hát trình diễn xuất sắc các vở chính kịch kinh điển trong và ngoài nước. Gần đây, vở kịch Cô gái đội mũ nồi xám của kịch tác gia Lưu Quang Vũ được dư luận chú ý bởi hai lí do: Thứ nhất, đây là lần công diễn trở lại sau hơn 20 năm nhân kỷ niệm 22 năm ngày mất của tác giả; thứ hai, vở kịch sẽ được dàn dựng mới với sự diễn xuất của Đoàn kịch I Nhà hát Tuổi trẻ.

Sự kì vọng của khán giả thủ đô đã được đền đáp xứng đáng bởi giá trị nhân văn của vở kịch và trình độ cao của diễn viên nhập vai. Cảm tưởng đầu tiên về Cô gái đội mũ nội xám là một vở kịch cổ điển với các đầy đủ các bước phát triển của hành động kịch. Nội dung vở kịch có thể tóm tắt trong một câu: Câu chuyện về những mối tình của Trâm, trải qua bao bi kịch tình yêu cuối cùng cô cũng tìm được hạnh phúc đích thực.

Tất nhiên, nếu chỉ đơn giản như vậy vở kịch sẽ chẳng nhận được nhiều lời khen ngợi. Về bản chất đây là vở kịch luận đề sâu sắc. Sự tự vấn mang tính triết học trong vở kịch không khó để giải mã, đó là: cá nhân giữ gìn bản sắc của mình như thế nào trước những định chế xã hội, những mối quan hệ với các cá nhân khác? Điều này thể hiện rõ trong hai nhân vật Trâm và Nhật. Trâm-cô gái đội mũ nồi xám 22 tuổi chỉ mong có một gia đình bình dị. Nhưng cô đã gặp những người đàn ông yêu cô ít hơn yêu tiền bạc và quyền lực. Sự thất bại trong tình yêu khiến Trâm trở thành “người đàn bà thép” từ chối tình yêu nhưng cuối cùng cô trở về với ước mơ sâu kín của mình nhờ Thành-mẫu người đàn ông của gia đình. Về nhân vật Nhật, nghề nghiệp của anh là một kiến trúc sư vẽ ra những ngôi nhà cao hơn… 100 tầng không hợp với thực tế sử dụng của thời bao cấp. Sau những vấp ngã, anh cũng thay đổi, anh trở thành người giàu có nhưng lại từ bỏ ước mơ sáng tạo-bản sắc con người duy mĩ. Điều này khiến cho Trâm không thể yêu lại Nhật bởi anh không chỉ đánh mất bản sắc mà cũng đánh mất hình mẫu mà Trâm từng tôn thờ.

Có người phàn nàn khi vở kịch có nhiều đoạn tấu hài. Những yếu tố hài được đưa vào chỉ là phần nhỏ đặt trong những lời đối thoại của nhân vật phụ nên không ảnh hưởng tới tinh thần vở kịch. Nếu đặt trong môi cảnh thời nay, việc sử dụng những đoạn tấu hài xem ra lại hợp lí, khán giả hiện nay nhất là giới trẻ thích đùa vui, những điều giáo huấn quá nhiều đôi khi lại phản tác dụng. Cho nên, những đoạn tấu hài là “gia vị” thích hợp góp phần làm mới vở kịch. Một “gia vị” khác làm tăng tính nghệ thuật của vở kịch là việc sử dụng âm nhạc. Suốt vở kịch chỉ có hai bản nhạc được sử dụng: Một bản guitar rộn ràng cho những tình tiết vui vẻ, phần còn lại bài hát Im lặng của nhạc sĩ Dương Thụ qua tiếng hát Hồng Nhung được dùng cho những cảnh chia ly buồn đau. Dụng ý trong việc bài hát Im lặng không phải vì bài hát đề cập đến tình yêu không thành mà trong lời ca nói sự trôi chảy của thời gian tương ứng với sự biến đổi bản sắc cá nhân của nhân vật trong kịch. Sự tối giản và nhất quán trong dàn dựng vở kịch còn thể hiện ở thiết kế sân khấu. Họa sĩ thiết kế đã có lí khi chỉ sử dụng bục và dây để không chỉ thể hiện địa điểm hành động kịch diễn ra mà còn biểu đạt cảm xúc nhân vật. Ví dụ: Rèm dây được kéo lên cao tuột khỏi tầm tay Nhật ẩn dụ việc anh đánh mất tình yêu với Trâm.

Điều đáng tiếc duy nhất trong vở kịch là nữ diễn viên Hoài Thu không còn trẻ để hợp với Trâm ở tuổi 22. Nhưng bù lại chị đã nhập vai Trâm 10 năm sau một cách xuất sắc khi thể hiện tâm lí bên ngoài lạnh lùng nhưng bên trong là một trái tim nhạy cảm khao khát yêu thương. Một điều chưa hoàn hảo trong lần tái xuất của vở kịch phải chăng để lại một chút tiếc nuối về mối tình thời ngây thơ của Trâm và Nhật như người từng trải hay nói: “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở”!

HÀM ĐAN

Chủ Nhật, 8 tháng 8, 2010

PHIM HÈ 2010: "ĐA" NHƯNG KHÔNG "TINH"!

Mùa hè luôn là lúc các hãng phim tung ra những siêu phẩm để hốt bạc và ẵm các giải thưởng. Số lượng phim phát hành nhiều đến mức: Nếu trừ thời gian để… ăn và ngủ, suốt 3 tháng hè chỉ xem phim cũng chưa chắc đã thưởng thức hết tất cả. Số lượng phim nhiều nhưng tỉ lệ nghịch là chất lượng các bộ phim giảm rõ rệt. Số phim có tính mới mẻ, chứa đựng phẩm chất tinh túy của môn nghệ thuật thứ 7 chỉ đáng đếm trên đầu một bàn tay, những phim còn lại từ nội dung và các cách biểu đạt đang lặp lại khiến người xem chán ngấy.

Khuôn sáo

Điện ảnh không sinh ra chỉ để di dưỡng tinh thần, mục tiêu của hầu hết các phim là bán được nhiều vé để thu bộn tiền. Hè năm ngoái, dù khủng hoảng tài chính nhưng điện ảnh lại thăng hoa với doanh thu 4 tỉ đô. Để vượt kỉ lục cũ, các nhà sản xuất phim hè năm nay sẵn sàng vứt bỏ đặc trưng quan trọng của nghệ thuật là luôn tự làm mới. Đổi mới mà chẳng ai ỏ ê đến rạp thì thật nguy hiểm. Thêm nữa, ngoài mùa phim hè còn có mùa phim dịp năm mới, sức ép kịch bản dẫn đến tình trạng cung không đáp ứng đủ cầu. Nên, an toàn nhất là làm phim dựa trên những công thức có sẵn mà khán giả còn hứng thú. Một nhà phê bình đã chua chát nói rằng: “Những người làm phim đang biến thành thợ làm theo mẫu cho sẵn chứ không còn là nghệ sĩ sáng tạo!”. Rõ nhất ở phim hành động, phim Knight and day (Hiệp sĩ và ban ngày) với những màn võ thuật như cách đây 30 năm, kết cục phim quá dễ đoán khi nam anh hùng cùng với mĩ nhân vượt qua mọi trở ngại và yêu nhau. Sự khuôn sáo quá mức đã phải trả giá khi những phim hành động như Knight and day và The A-team (Đội A) chỉ lãi “cò con” vài chục triệu đô. Các nhà sản xuất giờ đã nhận ra không thể “móc túi” người xem bằng “bổn cũ soạn lại” bởi “nhiều phim đã làm khán giả chán, họ đang tìm điều gì mới mẻ hơn”- một nhà điều hành hãng phim nói.

Nhưng có một nguyên nhân khác khiến điện ảnh ngày càng khuôn sáo là thời của những ý tưởng mang tính “độc sáng” đã qua. Điện ảnh đang rơi vào bế tắc không phải là làm phim như thế nào mà là làm phim về cái gì. Kĩ xảo điện ảnh đã đến mức có thể hư cấu hành tinh Padora trong phim Avatar (Thế thân-2009) nhưng các nhà làm phim cách tân vẫn đang vò đầu bứt tai đi tìm ý tưởng, hình tượng mới đưa lên màn ảnh. Đã thế, vài ba chục năm mới xuất hiện một đạo diễn có phong cách riêng như James Cameron, Vương Gia Vệ, Steven Spielberg…

Với hai nguyên nhân trên, dễ hiểu vì sao mùa hè 2010, số lượng phim làm lại (remake) hay phim làm tiếp (sequel) lại nhiều như vậy: gần 100 phim.



Một mùa hè nhàm chán của phim có đóng diễn không quá bi đát nhờ sự thành công của phim Inception (Khởi đầu). Inception có tính nghệ thuật và doanh thu cao với 380 triệu đô sau chưa đầy 1 tháng, khiến những người ghét khuôn sáo “chưa mất niềm tin”. Sự thành công của Inception đến từ một ý tưởng nguyên gốc của đạo diễn Christopher Nolan. Chủ đề giải mã giấc mơ con người rất độc đáo với thủ pháp lồng các giấc mơ với nhau nâng Inception thành phim nghệ thuật hàng đầu. C.Nolan cũng khôn ngoan khi sử dụng khá nhuần nhuyễn yếu tố của phim hành động và tâm lí giúp phim bớt khó hiểu.

“Điểm 10” cho hoạt hình


Trừ Inception, những phim làm “cháy vé” trong mùa hè 2010 đều là những phim hoạt hình không đóng diễn. Ba phim hoạt hình “sát thủ phòng vé” là: Shrek: The final chapter (Chằn tinh Shrek: phần cuối), Toy Story 3 (Câu chuyện đồ chơi 3) và Despicable me (Tựa tiếng Việt: Kẻ trộm mặt trăng) được dự đoán sẽ ăn khách ngay khi đang sản xuất. Hơn chục năm trở lại đây, chính phim hoạt hình mới đích thực là “cứu tinh” điện ảnh và làm lượng người đến rạp tăng vọt xứng đáng được điểm 10.

Sự thành công của phim hoạt hình bắt đầu từ 21 năm trước, khi loạt phim hoạt hình The Simpsons (Gia đình Simpson) xuất hiện. Trước đó, phim hoạt hình về vịt Donal, chuột Mickey, Tom và Jerry, chú chó Snoopy… cho đến những phim dựa trên truyện cổ như: Người đẹp và ác thú, Công chúa lọ lem... có hình ảnh vui mắt nhưng ít triết lí, nếu có tính giáo dục lại hơi lộ liễu và cái hài để cười chỉ trong giây lát nên chỉ hấp dẫn trẻ con. The Simpsons ra đời làm sụp đổ cách làm phim hoạt hình cũ. Mỗi tập phim đều theo sát các vấn đề cuộc sống từ việc ăn chay cho cho đến bầu cử tổng thống, vấn đề đồng tính... cho nên mỗi tập phim gần giống như một chương trình thời sự tiêu điểm; mặt khác đằng sau tiếng cuời đều tính nhân văn sâu sắc nên ngay lập tức The Simpsons thu hút sự quan tâm của những người lớn chứ không riêng trẻ em.

Phim hoạt hình hè 2010 vẫn không có nhiều thay đổi khi chú trọng tính tính nhân văn. Chính điều này đã tạo ra sự ám ảnh cho người xem nên dù kéo dài đến phần 3 nhưng Toy Story với các nhân vật quen thuộc là cao bồi Woody, người máy Buzz Lightyear vẫn thu về 829 triệu đô bởi sự thương yêu giữa các đồ chơi vượt trên mọi bất đồng trong phim luôn là điều mà loài người luôn mơ đến. Phần 3 của Toy Story cách phần 1 đúng 15 năm, một thế hệ trẻ em trên thế giới sinh cuối thập niên 1980 như người viết bài này, các nhân vật hoạt hình của Toy Story không đơn thuần chỉ để giải trí mà đã là một kí ức đẹp của tuổi thơ.

Phim hoạt hình hiện nay cũng phải đang đối mặt với nguy cơ khuôn sáo. Ví dụ: Trong phim hoạt hình Despicable me, motif từ kẻ xấu xa tận cùng bỗng gặp 3 cô gái mồ côi mà Gru trở thành ông người tốt lại được dùng; tạo hình của Gru khá giống với nhân vật phản diện Anton Ego trong phim Ratatouille (Tựa tiếng Việt: Chú chuột đầu bếp-2007)... May thay, sự độc đáo trong tính cách nhân vật và trí tưởng tượng chi tiết đã giúp Despicable me trở thành phim ăn khách nhất mấy tuần gần đây, xếp trên cả phim Eclipse (Nhật thực) vẫn đang “hot” nhờ hội chứng “cuồng” phim ma cà rồng của tuổi teen.

Phim hè Việt: Đầu đã xuôi…


Vài năm trước, đang bàn về phim hè bỗng liên hệ với phim Việt thì ai cũng than thở: Bao giờ mới có phim hè Việt! Nhờ tốc độ tư nhân hóa mạnh mẽ mà giấc mơ của nhiều khán giả thành hiện thực nhanh đến không ngờ. Mùa hè 2010, có thể xem là lần đầu tiên phim Việt ra rạp có lãi.

Sau thắng lợi với mùa phim Tết như doanh thu 15 tỉ đồng của phim Bẫy rồng chiếu cùng lúc với siêu phẩm Avatar, các hãng phim bắt đầu tung phim vào mùa hè tranh thủ thời gian nghỉ của số lượng lớn khán giả. Lợi thế vô song của những người làm phim Việt là hơn 85 triệu người Việt dẫu sao vẫn thích xem phim bằng tiếng mẹ đẻ. Điều thứ hai là các đề tài mà phim Việt bỏ ngỏ là rất lớn, tha hồ để các nhà làm phim khai thác.

Hai lợi thế lớn này thực tế vẫn chưa đảm bảo thành công chí ít về mặt doanh thu. Cho nên, khi hai bộ phim Tây Sơn hào kiệt và Để Mai tính ra mắt cạnh tranh với phim ngoại khiến không ít người lo lắng. Giờ đây, mùa hè sắp kết thúc, những người ủng hộ phim Việt có thể thở phào khi Tây Sơn hào kiệt dù bị chê tơi bời nhưng vẫn trụ được gần 1 tháng; trong khi phim Để Mai tính rất ăn khách với hơn 1 tỉ đồng trong 3 ngày đầu ra mắt.

Thành công của Ðể Mai tính trước hết là sự chuyên nghiệp của đoàn làm phim có tiếng của đạo diễn Charlie Nguyễn. Công tác chuẩn bị y như phim Tây: thu hút tài trợ đổi bằng quảng bá thương hiệu trên phim (với hơn 15 thương hiệu lớn), lập website riêng với nhiều thông tin, hình ảnh được cập nhật liên tục, lên kế hoạch chiếu sớm với các hệ thống rạp... Ðặc biệt, lần đầu tiên những hình ảnh hậu trường được sản xuất thành 16 tập phim truyền hình thực tế chiếu trên kênh VTC1, VTC7 cách ngày ra mắt 2 tháng giúp khán giả hình dung về các công đoạn làm phim đồng thời tạo sự háo hức.

Đang vui với phim Việt trụ với phim ngoại trong mùa hè thì vẫn có điều băn khoăn trong đầu: Bao giờ phim nhà nước ăn khách vào mùa hè như phim tư nhân? Đó là chuyện dài và chắc không thể có đáp án ngay; thôi đành, để mai tính…

HÀM ĐAN

Thứ Ba, 3 tháng 8, 2010

ĐẶNG THỊ NGỌC HÂN WITH ME-CHUYỆN HỒI CHƯA BIẾT YÊU:)

(Ảnh này là tự làm tự ăn:) Của nhà chụp được:))

Chủ đề hôm nay rất thời sự, so hot, so sexy, pop..., đó là: hoa hậu!

Lẽ ra, người viết bài này đang ở Tuần Châu (Quảng Ninh) và đang tít mắt ngắm nhìn các em chân dài đến nách (vậy nách ở đâu???) nhưng mà có một chị đồng nghiệp đã được phân công việc này từ trước nên hụt cơ hội được rửa mắt. Nếu vụ Hoa hậu Người Việt mà mời chắc sẽ được sếp phân công đi để an ủi vụ đi hụt Tuần Châu. Ông sếp phó cũng tâm lí trong vụ đền bù vì biết khổ chủ mê tít một nàng đang đi thi Hoa hậu :)

Tiếc hùi hụi vụ Tuần Châu bởi lẽ quá ấn tượng với em Đặng Ngọc Hân. Ông sếp phó trêu: Em Ngọc Hân của chú (đúng ngữ pháp sở hữu nhé Your... :)) thể nào cũng đoạt giải cao. Ôi dào, lại còn khen Hoa hậu tốt áo:) Cái đó rõ như ban ngày, khả năng em này lọt vào top5 là 90%, top3 là 80%. Đơn giản trông em xinh:) (of course) và trông khá thông minh mà thông thường hai phẩm chất này lại không mấy khi lắp được vào nhau:). Nói rõ thêm, không phải vì em học đại học mà bảo em thông minh đâu nhé! Sự thông minh toát ra sự thần thái, các nói chuyện (em này giọng khàn như Phương Thanh nhưng âm vực nữ thấp và khi p/v tỏ rõ sự khôn và ngoan:)) etc Nhưng mà em Hân cũng có điểm trừ. Chờ hồi sau sẽ rõ:)

Theo một số đồng chí báo chí cho hay, khả năng những em đã hành sự người mẫu (tức là đã công nghiệp nặng:)) như em Ngọc Hân cùng lắm là Top3 chứ không bao giờ đăng quang vì hầu hết các cuộc thi hoa hậu đều thích phát hiện người đẹp, đưa nàng từ nọ nem, ngây thơ trở thành công chúa hay show hàng:) (Ai từng biết Thúy kều trước khi nàng lên ngôi thì rõ nhất!!!)  

Hôm đưa tin chung khảo Hoa hậu VN miền Bắc, định trưng cái ảnh bikini của em Ngọc Hân trên mặt báo nhưng mà hơi ngại:) Báo chính trị mà trưng ảnh mát thế e lập trường cách mạng bị giao động, lại có nhiều bác Tô thì chiết:) nên (quyết định tự ý đục bỏ) bằng một ảnh em Hân mặc trang phục dạ hội. Vẫn là ông sếp phó trêu: Chú cứ ưu tiên em ấy quá:) Bị châm chọc đành viện lí do rất... Việt Nam: tại trường em ấy học ở 360 La Thành, trường của khổ chủ ở số 418, thành thử ra có nhìn thấy ngoài đời nên ấn tượng với nhan sắc của nàng:)

Sâu xa, vụ cánh hẩu em Hân là do một ám ảnh thời thơ ấu (Nghiêm trọng chưa?:)) Khổ chủ có đọc phân tâm học nên tự phân tích cái này đc:) Chắc chắn đa phần đàn ông Việt thích các em da trắng, riêng khổ chủ thích da nâu như em Hân vì hồi trước khổ chủ bị ám ảnh do sống gần bà chị họ. Bà này da nâu. Vóc người như Tây vì bà sống ở miền núi. Khuôn mặt khá hài hòa, duyên cằm nhọn. Hồi nhỏ hay... :) với bà. Thành thử lớn lên bị ám ảnh y như nhân vật xưng tôi trong truyện ngắn "Ánh trăng" của Nguyễn Bản vậy. Hix. Thế là lớn lên khổ chủ cứ mê tít em nào khuôn mặt nhọn và duyên, da ngăm :). Nếu mà không có hiểu biết từ sách vở chắc nghĩ mình bị bệnh roài và sau đó không biết dẫn đến vụ manh động nào kh:)

Vụ chung khảo miền Bắc thực ra là một trải nghiệm hay ho đầu tiên cho khổ chủ. Tất cả trải nghiệm dẫn đến kết luận: chân dài nói chung chỉ để ngắm thôi:) Y như cây cảnh, không có quả... Not use:) Rõ nhất là giờ giải lao, sau khi kết thúc trình diễn bằng nụ cuời hồn nhiên như cô tiên, các em gặp người nhà và bạn thế là những cái miệng cứ cong lên nói năng bạt mạng, trông điêu không thể tả được. Hix. Rõ hơn nữa là khi công bố em nào có vé đi Tuần Châu. Danh sách đọc theo thứ tự abc, các em tuy vỗ tay ầm ầm ra vẻ mừng cho bạn nhưng trong lòng cứ lo ngay ngáy cho mình. M.C đọc đến vần H, em Hân giật mình cứ tưởng mình bị loại:) Túm lại, có thể bắt chước Roland Barthes mà nói rằng sân chơi hoa hậu là một sàn kịch! 

Nói thêm điều nữa, khổ chủ từ trước đến nay chẳng mấy để ý mấy vụ hoa hậu nhưng giờ đi làm báo nên không thích cũng phải quan tâm chứ không phải là người hiếu sắc đâu nha:) Nhưng mà hix, vẫn phải thú nhận là mê em Hân như điếu đổ:)   

Dự đoán như World Cup này:)
Top5:

Tin giờ chót: Có nguồn tin riêng cho biết: Một thí sinh đi thi Hoa hậu là hàng bán chuyên:) Shock chưa???