Thứ Ba, 28 tháng 4, 2009

NỮ SINH VÀ VĂN HỌC ĐÔ THỊ


Có người đã chê văn học Việt Nam chưa phản ánh được nhịp sống đô thị. Không hẳn vậy, thân phận nữ sinh đô thị Việt Nam trong văn học chí ít đã phản ánh nhịp sống ấy, hoặc ngược lại. Có thể thấy xã hội đô thị Việt Nam mỗi thời kỳ qua thân phận các thế hệ nữ sinh trên các trang văn.

“MỒ GIAI NHÂN”

Ở Việt Nam có một sự tình cờ là tầng lớp nữ sinh ra đời cùng lúc với đô thị thuộc địa. Sự chuyển tiếp từ xã hội phong kiến bình lặng sang xã hội công nghiệp sôi động - nữ sinh có lẽ là lớp người bị hụt hẫng nhất. Ở trường, họ tiếp xúc với văn hóa Pháp đậm tinh thần tự do. Nhưng về gia đình, họ phải chịu đựng gia phong cổ hủ, "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Số nữ sinh tự tử (chủ yếu vì tình) ở hồ Tây (Hà Nội) theo thống kê của báo chí thuộc địa là 139 người. Vì thế nơi này được ví như "Mồ giai nhân".

Các nhà văn thời ấy sớm nhận ra xung đột nội tâm của nữ sinh và nhanh nhạy phản ánh vào trong văn học theo ba hướng. Thứ nhất, theo tinh thần lãng mạn, tiêu biểu với các tiểu thuyết luận đề của nhóm Tự lực Văn đoàn. Tiếp theo là hài hước hóa hình tượng nữ sinh, như nhân vật Tuyết trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Và cuối cùng, vẫn là "ông vua phóng sự Bắc Kỳ" Vũ Trọng Phụng với cuốn tiểu thuyết Làm đĩ theo tinh thần hiện thực phê phán, viết về thân phận cô nữ sinh tên Huyền.

Nữ sinh ở đô thị đòi chứng tỏ nữ quyền trong khi dư luận xung quanh lại mang tâm thức phong kiến. Đô thị thuộc địa không tạo cho họ nhiều cơ hội. Môi trường này còn giăng nhiều cạm bẫy khi các quan hệ đan xen mới - cũ phức tạp khiến nội tâm các nữ sinh bị giằng xé. Tâm lý chung của nữ sinh trong văn học giai đoạn này là tâm lý phụ thuộc. Nhân vật nào an phận theo truyền thống đạo đức, tuân theo sự sắp xếp của gia đình thì cuộc đời của họ toàn "màu hồng". Ngược lại, số phận bất hạnh đang chờ sẵn. Nhân vật Huyền trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng vốn là nữ sinh con nhà gia giáo. Trót "ăn trái cấm" với anh họ, sau đó bị chồng lẫn bạn chồng lừa gạt. Không có con đường nào khác, Huyền đành trở thành gái giang hồ.Nữ sinh trước Cách mạng tháng Tám đã được văn học quan tâm thỏa đáng. Bản thân họ là hình tượng nhân vật mới mẻ trong một môi trường mới, chứa đựng nhiều mâu thuẫn để văn chương có thể lấy làm chất liệu.

Thời kỳ đất nước bị chia cắt, ở miền Nam nữ sinh vẫn thường xuyên có mặt trong các tác phẩm, nhưng cách phản ánh vẫn chỉ là vệt kéo dài của văn học tiền chiến. Ở miền Bắc, hình tượng nữ sinh không còn được văn học chú ý bằng các nhân vật công, nông, binh. Thời điểm này, đô thị miền Bắc thời chiến không phát triển thêm bao nhiêu. Thỉnh thoảng, nhân vật nữ sinh xuất hiện nhưng lẫn vào bao nhân vật khác cùng say mê lý tưởng, hoạt động hăng say trong các đoàn thể. Nếu hành động gắn liền với những suy nghĩ trái chiều với đám đông, lập tức họ bị gạt ra lề cuộc sống - như số phận bất hạnh của cô sinh viên Phương trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh.
Dẫu sao, các nhân vật nữ sinh trong văn học đã đồng hành cùng với đô thị.

NỮ SINH ĐƯƠNG ĐẠI ĐANG... LỘT XÁC

Truyện ngắn Mưa của nhà văn Lê Minh Khuê lấy bối cảnh thập niên 1980, kể chuyện một nữ sinh trường múa bị người yêu bỏ rơi. Kết thúc, tinh thần cô suy sụp, ngồi ngắm mưa bên cửa sổ. "Bóng ma" của tâm lý phụ thuộc và hình tượng nữ sinh tiền chiến vẫn lởn vởn trong văn học thời kỳ đầu đổi mới.

Vài năm sau, hình ảnh những nữ sinh yếu đuối biến mất. Thay vào đó là những nhân vật vượt qua được những vấp ngã đầu đời. Người tình của Nhã bỏ đi để lại cô một đứa con. Cô gục ngã, nhưng gượng dậy, vẫn sống độc thân, trở thành một nữ doanh nhân thành đạt để kiêu hãnh với kẻ bạc tình. Câu chuyện trên nằm trong tiểu thuyết Cơ hội của Chúa của nhà văn Nguyễn Việt Hà viết về cuộc sống đô thị đầu những năm 1990.

Chỉ đến khi những công dân thế hệ 8X, 9X trưởng thành, nữ sinh mới thực sự lột xác. Đầu thế kỷ này, xã hội tiêu thụ và văn hóa đại chúng mới ngấm sâu vào cuộc sống ở đô thị. Đô thị trở thành một môi trường mở cho tất cả mọi người . Nữ sinh không phải học hành chăm chỉ cố đạt một chỗ ngồi trên giảng đường, hay mơ được làm việc trong một cơ quan Nhà nước, rồi lập gia đình như các thế hệ bà, mẹ của họ. Năng động, giao tiếp rộng, đam mê và có tài - những phẩm chất khiến nữ sinh đang ngồi trên ghế phổ thông có thể trở thành những vũ công nhạc Dance, DJ, đầu bếp, stylist, PR, trang điểm, nhiếp ảnh... - những nghề thu nhập có thể đến 5 - 7 triệu đồng/tháng. Nữ sinh đã có thể độc lập tạo dựng con đường sống.

Thêm một lần nữa, hình ảnh nữ sinh lại được văn học xem như một đối tượng mới cần phản ánh. Các cây bút trẻ đã vẽ được một lớp nữ sinh đây cá tính, ngầm ủng hộ lối sống hiện đại. Nhưng văn học không chỉ có tô hồng, một số tác phẩm cũng viết về những nữ sinh đi vào con đường hưởng thụ, để chứng tỏ cá tính theo cách tiêu cực. Đáng tiếc là những tác phẩm văn học mới chỉ "khai phá" đề tài bằng cách kể lại câu chuyện theo những hình thức đơn giản. Tâm lý bên trong con người nữ sinh đương đại mới chỉ được văn học chạm nhẹ, chưa đủ sức lay động độc giả khó tính ngày nay. Nếu so với các tác phẩm viết về nữ sinh sống trong đô thị như Rừng Na Uy, 69, Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường. . . của Nhật Bản hoặc các tiểu thuyết “Made in China” như: Yêu anh hơn cả tử thần, Sinh năm 1980, Xin lỗi em chỉ là con đĩ ... thì văn học Việt Nam ít thành tựu hơn.
Cuộc sống đô thị tốc độ nhanh, tâm lý nữ sinh đương đại không còn "buồn rớt" như thời đại đã qua. Họ đứng dậy và quên rất nhanh những đều không may, những mối tình "tàu nhanh" - hình thành tính cách mạnh mẽ trong cuộc sống cạnh tranh khắc nghiệt. Nhiều nhân vật nữ sinh đã sẵn sàng đánh đổi các giá trị được xem là chuẩn mực để có thể tồn tại được ở đô thị. Mặt trái kèm theo là sự vô cảm. Như lời của người em - cựu sinh viên ĐH sư phạm đang thất nghiệp thản nhiên nói với chị ruột: "Nếu tôi không đi làm điếm thì không thể thay đổi" (truyện ngắn Hạnh của Nguyễn Thị Minh Dậu). Liên hệ với lời khai lạnh lùng của cô sinh viên giết người tình đang xôn xao gần đây, thì văn học Việt Nam đã mang tính dự báo.

HÀM ĐAN

GS PHẠM ĐỨC DƯƠNG: “LÃNG PHÍ CỦA NGƯỜI VIỆT DO TRÌNH ĐỘ VĂN MINH THẤP KÉM”


Giáo sư Phạm Đức Dương sinh năm 1930 tại Hà Tĩnh. Lĩnh vực chuyên môn: ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ thực nghiệm; Đông Nam Á học. Ông là người xây dựng và là chuyên gia đầu ngành về Đông Nam Á học ở Việt Nam. Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Nam Á từ 1975 đến 1995. Tổng biên tập tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (1990 - 1995) và tạp chí Việt Nam – Đông Nam Á ngày nay (1995 - 2000).

Phóng viên (PV): Thưa GS, lãng phí ở nước ta nên nhìn từ góc độ nào?
GS Phạm Đức Dương: Đặc trưng của người Việt Nam là cư dân lúa nước sống ở đồng bằng. Người Việt là những tiểu nông. Từ đó, đẻ ra những ứng xử khác nhau. Bên cạnh mặt tích cực có nhiều mặt tiêu cực mà lãng phí là một trong những điểm tiêu cực nổi bật. Từ khi Đổi mới bước vào xã hội công nghiệp sự lãng phí lại bộc lộ nhiều hơn. Muốn tìm hiểu người Việt Nam và tính cách của họ trong đó có sự lãng phí theo tôi phải đi theo hướng này. Đồng thời cũng phải đứng trên tầm thời đại để thấy được lãng phí của người Việt.

PV: Thưa GS, ông có thể so sánh về sự lãng phí của người Việt hiện nay so với ngày xưa, giữa Việt Nam và các nước khác?

GS Phạm Đức Dương: Sự lãng phí đúng là đã có từ thời các cụ. Ngày xưa chỉ làm lúa một vụ nên phải khẩn trương “nhất thì, nhì thục” là vậy. Nhưng sau khi thu hoạch là xả hơi, vui chơi hội hè. Cho nên người Việt vừa chăm chỉ cần cù lao động hiếm có nhưng khoản ăn chơi, hội hè thì cũng không ai bằng.

Người Việt ngày thường ăn mặc rất tiết kiệm nhưng đến lễ hội, giỗ chạp là phung phí vô lối. Người Việt có bệnh sĩ, bốc đồng “con gà tức nhau tiếng gáy”, nhất quyết không được thua bè thua bạn. Giờ vật chất đã khá sự phung phí càng tăng nhất là chuyện thiết đãi ở đám cưới, hội nghị vì người Việt có tư duy “trọng khách”. Thức ăn thừa quá phí phạm. Người Đức ăn không hết mang về vì họ coi là sức lao động của họ. Ta chưa có thói quen đó.

Người Việt cũng không biết quý trọng thời gian. Thời gian nhàn rỗi không biết làm gì. Người Nga khi xếp hàng hay lên tàu điện đều mang theo sách. Họ đọc để thêm kiến thức vừa quên thời gian chờ đợi.

Sự lãng phí lớn nhất theo tôi đó là sự lãng phí trong xây dựng. Bước vào công nghiệp hóa xây dựng càng lớn. Dưới con mắt anh tiểu nông, tầm nhìn không xa, thiếu cơ bản sự lãng phí càng lớn hơn. Người Nhật học cho đến kiệt rồi từ đó mới sáng tạo. Người Việt học không đến đầu đến đũa, chỉ học cái gì cần thiết trước mắt. Đi vào đời sống hiện đại mà thiếu căn bản là rất nguy hiểm.

Thêm nữa nước ta chiến tranh, bao cấp kéo dài, cái không bình thường trở thành cái bình thường. Cái không bình thường chỉ có phá hoại.

PV: Thưa GS, vậy đâu là nguyên nhân căn bản dẫn đến sự lãng phí của người Việt?

GS Phạm Đức Dương:

Theo tôi đấy là trình độ văn minh trong con người Việt thấp kém chưa đáp ứng được cho một xã hội phát triển. Giáo dục chưa đào tạo được những con người văn minh biết tiết kiệm. Con người hiện đại cần phải được giáo dục cẩn thận. Theo tôi cần phải dạy cho lớp trẻ học làm một công dân văn minh hiểu được thế nào là lãng phí.

Quan trọng hơn cần tạo ra một thiết chế để mô hình “”Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ” vận hành có hiệu quả chứ không phải là khẩu hiệu suông. Có làm như vậy mới giải quyết được nhiều vướng mắc trong đó có sự lãng phí.

Xin cảm ơn GS Phạm Đức Dương!

HÀM ĐAN (thực hiện)