Thứ Tư, 29 tháng 12, 2010

CHUNG KẾT LƯỢT VỀ AFF SUZUKI CUP 2010 IN-ĐÔ-NÊ-XI-A – MA-LAI-XI-A(2-1): CHÀO TÂN VƯƠNG MA-LAI-XI-A

Trận chung kết lượt về AFF Suzuki Cup 2010 diễn ra tối qua. Muốn làm được một cuộc lội ngược dòng, In-đô-nê-xi-a phải chắc chắn tạo ra được cách biệt lên tới bốn bàn trước Ma-lai-xi-a. Trong thâm tâm, dù lạc quan đến mấy, người hâm mộ In-đô-nê-xi-a cũng đã chuẩn bị tâm lý cho một thất bại chung cuộc.

Trong những phút đầu tiên của trận đấu, Ma-lai-xi-a chơi rất tự tin khi chủ động tạo ra những đợt tấn công về phía đội chủ nhà. Trong khi đó, In-đô-nê-xi-a dù đang rất cố gắng để sớm tạo ra khác biệt với những pha phối hợp tốc độ từ nhiều hướng tấn công vẫn chưa thể khiến hàng phòng ngự được tổ chức có chiều sâu bên phía Ma-lai-xi-a có biểu hiện bối rối.

Phút thứ 18, In-đô-nê-xi-a được hưởng quả phạt đền do cầu thủ Ma-lai-xi-a để bóng chạm tay trong vòng cấm địa. Tuy nhiên, đội trưởng Firman đã thực hiện cú sút quá nhẹ và không chiến thắng được thủ môn Fahmi bên phía đội khách trong sự tiếc nuối của “biển người” trên sân Bung Karno. Sau tình huống đá hỏng penalty, In-đô-nê-xi-a vẫn rất nỗ lực để gia tăng cường độ tấn công nhưng có vẻ như tinh thần của Ma-lai-xi-a được đẩy lên cao. Có lẽ, họ tin “thần may mắn” đang đứng về phía mình. Ma-lai-xi-a sau tình huống “hút chết” đã trở về với lối chơi quen thuộc. Họ giữ bóng chắc, áp sát đối phương khi mất bóng để làm giảm nhịp độ tấn công của đội chủ nhà. In-đô-nê-xi-a liên tục tấn công nhưng vẫn còn thiếu sự chính xác ở những pha bóng quyết định. Hiệp một tương đối tẻ nhạt đã khép lại với tỷ số 0-0.

Hiệp hai bắt đầu với thế trận khá giống trong hiệp thi đấu đầu tiên nhưng có vẻ như Ma-lai-xi-a đã tự tin hơn rất nhiều khi họ không chỉ tập trung phòng ngự mà cố gắng thực hiện những pha tấn công quen thuộc ở hai bên cánh. In-đô-nê-xi-a mải mê tấn công một cách cuồng say mà quên gia cố hệ thống phòng thủ ngay từ xa. Tệ hại hơn, phút thứ 54, cầu thủ In-đô-nê-xi-a Abdurahman đã mắc lỗi chuyền bóng hỏng để tiền vệ Ma-lai-xi-a có bóng và có đường chuyền dài cho “sát thủ” Safee bắt tốc độ trước khi dứt điểm quyết đoán hạ gục thủ môn In-đô-nê-xi-a Markus.

Vào thế đường cùng, In-đô-nê-xi-a cũng không có được sự sắc sảo trong những pha tấn công. Ở vào thời điểm mà nhiều người đã tin In-đô-nê-xi-a thậm chí còn không thể có nổi một bàn thắng danh dự thì họ đã làm được nhiều hơn thế. Phút thứ 72, những nỗ lực tấn công của In-đô-nê-xi-a mới có hiệu quả khi Nasuha có mặt đúng lúc để dứt điểm cận thành sau pha cản phá bóng không dính của thủ môn bên phía Ma-lai-xi-a. Gần hai mươi phút sau, In-đô-nê-xi-a có bàn thắng thứ hai khi cú sút của Ridwan chạm đầu của hậu vệ đội khách bay vào lưới. Thời điểm đó trận đấu đã ở phút 88 và sau đó cả hai đội không có thêm bàn thắng nào được ghi. Tỷ số trận lượt về là 2-1 nghiêng về chủ nhà In-đô-nê-xi-a nhưng tổng tỷ số là 4-2 và Ma-lai-xi-a chính thức trở thành tân vô địch của bóng đá Đông Nam Á sau chiến tích vô địch SEA Games 25 (2009).

Sau trận đấu, Ban tổ chức đã trao các giải thưởng cá nhân và trao chiếc cúp vô địch AFF Suzuki Cup cho nhà vô địch Ma-lai-xi-a. Dù không thể lên ngôi ngay tại sân nhà, song In-đô-nê-xi-a đã tạo ra dấu ấn bởi lối chơi đầy sức mạnh suốt một giải đấu đáng nhớ.

HÀM ĐAN

Thứ Ba, 28 tháng 12, 2010

TRƯỚC TRẬN CHUNG KẾT LƯỢT VỀ AFF SUZUKI CUP 2010: VÌ DANH DỰ!

Một trận đấu bóng đá, nhất là ở trận đấu chung kết có thể chứa đựng những kịch bản không tưởng như chung kết Champions League mùa giải 1998-1999 khi Manchester United lội ngược dòng trước Bayern Munich bằng 2 bàn thắng chỉ trong 100 giây bù giờ. Nếu lạc quan thì In-đô-nê-xi-a có tới tận 90 phút để ghi 3 bàn thắng nhằm san hòa tỉ số tại sân nhà Gelora Bung Karno trong trận chung kết lượt về AFF Suzuki Cup 2010 vào 19 giờ ngày 29-12.

Đó là lý thuyết, trên thực tế ở thời điểm hiện tại, In-đô-nê-xi-a rất khó để ngăn người Mã lần đầu tiên lên ngôi tại AFF Cup. Khó ở chỗ phải tìm ra một lối chơi để vô hiệu hóa lối chơi “ru ngủ” suốt 2/3 thời gian trận đấu rồi bất ngờ vùng lên mãnh liệt ở những giờ phút cuối trận của các học trò ông Rajagopal. Rõ ràng, đấu pháp của Ma-lai-xi-a ngay cả một người a-ma-tơ bóng đá đều có thể “nằm lòng”, thế nhưng “chiêu thức” nào để hóa giải? Chưa hết, cũng có thể Ma-lai-xi-a sẽ đặt cả “xe buýt” trước khung thành và chờ cơ hội phản công. Rõ ràng, lội ngược dòng trước người Mã là nhiệm vụ bất khả thi cho các học trò của HLV A. Riedl.

Viễn cảnh người hàng xóm Ma-lai-xi-a nâng cúp vô địch ngay trên “thánh địa” hẳn khiến hàng triệu con tim In-đô-nê-xi-a đau nhói. Song, In-đô-nê-xi-a cần tự trách mình khi đã không thi đấu tốt ở trận lượt đi. Người hâm mộ In-đô-nê-xi-a (kể cả ngài tổng thống nước này) có thể đổ lỗi cho thất bại ở lượt đi do hooligan Ma-lai-xi-a quấy rối song diễn biến trên sân chỉ chứng minh một điều chính hàng thủ In-đô-nê-xi-a là nguyên nhân cho trận thua ba bàn trắng. Cả ba bàn thua đều do lỗi kèm người; đã thế hai bàn thua đầu có lỗi gần tương tự nhau. HLV A.Riedl vẫn là một người làm nghề chuyên nghiệp khi tự vạch ra điểm yếu nơi hàng phòng ngự In-đô-nê-xi-a. Biết là một chuyện song ông sẽ khắc phục “lỗ hổng” hàng thủ như thế nào ở trận lượt về? Đó là điều người xem chú ý theo dõi ở trận chung kết lượt về bị cho là chỉ có tính “thủ tục”.

Lẽ thường, khi không còn gì để mất, các cầu thủ In-đô-nê-xi-a sẽ tấn công quyết ăn thua đủ nhưng sự vùng lên chưa hẳn vì để cứu lấy hy vọng mong manh là san bằng tỉ số đã quá cách biệt mà đơn giản chỉ vì danh dự. Người hâm mộ In-đô-nê-xi-a hẳn sẽ chẳng có lí do gì để trách khi các cầu thủ thi đấu với 100% khả năng có thể vì màu cờ sắc áo. Nếu thi đấu hết mình sẽ không có cảnh người hâm mộ biểu tình vây kín trụ sở Liên đoàn bóng đá và gương biểu ngữ đòi các vị lãnh đạo môn thể thao vua đất nước vạn đảo từ chức như cảnh tượng ở bên Thái Lan. Và khi đó, “chuyên gia về nhì” A. Riedl vẫn sẽ tại vị để lại một lần nữa âm thầm chuẩn bị cho “chiến dịch” đổi màu huy chương.

Khi bóng chưa lăn thì người hâm mộ In-đô-nê-xi-a vẫn sẽ tiếp tục mơ mộng vào một cuộc lật đổ nhờ một chiến thắng ở quá khứ khi In-đô-nê-xi-a từng đè bẹp Ma-lai-xi-a 5-1 ở vòng bảng. Đã thắng cách biệt 4 bàn hơn nửa tháng trước giờ chỉ… “diễn lại” thôi. Tại sao không?

HÀM ĐAN

Thứ Hai, 27 tháng 12, 2010

THỜI ĐÀM (V): NỘI TÂM "ĐẶT HÀNG"

Ở nước ta, các ban ngành thường xuyên tổ chức những đợt vận động văn nghệ sĩ sáng tác theo đề tài thuộc lĩnh vực mà ban ngành mình quản lý. Đó là một nhu cầu chính đáng, còn gì vui bằng như khi có một bài hát vừa được nhiều người thuộc vừa là “ngành ca”. Nhưng thực tế đáng buồn là đa số tác phẩm gửi đến các cuộc vận động đều có chất lượng thấp. Đây là đánh giá chung của những nhà chuyên môn thẩm định tác phẩm; đồng thời thực tiễn cũng đã kiểm chứng rất ít các tác phẩm có sức lan tỏa tới công chúng.

“Giải mã” hiện tượng trên phải bắt đầu từ một nguyên nhân khách quan là do tác phẩm nghệ thuật không phải lúc nào cũng “đều hàng” giống một sản phẩm sản xuất công nghiệp như… da giày. Điều này đúng với cả những nghệ sĩ lớn trên thế giới chứ chẳng cứ riêng với nghệ sĩ ở nước ta. Thế nên, nếu đợt vận động sáng tác trước có tác phẩm hay thì lại tổ chức ngay một vận động khác để có tác phẩm hay hơn chỉ là cách nghĩ của những người duy ý chí hoặc cho rằng mỗi cuộc vận động sáng tác thể nào cũng phát hiện được vài ba tác phẩm hay là điều không tưởng.

Nguyên nhân thứ hai quan trọng hơn chính là bản thân các đề tài của các cuộc vận động chưa đủ kích thích nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm giá trị. Bản chất của các cuộc vận động, nếu nói thẳng là các ban ngành đưa một đề tài và “đặt hàng” nghệ sĩ sáng tác, rồi chấm giải để trao thưởng. Nhưng những người tổ chức các cuộc vận động hình như đã không chú ý đến một quy luật trong sáng tạo nghệ thuật đó là hầu hết các tác phẩm nghệ thuật có giá trị đều xuất phát từ những đề tài gây ám ảnh đối với người nghệ sĩ. Phải yêu phố cổ Hà Nội đến mức ám ảnh thì danh họa Bùi Xuân Phái mới có thể vẽ được sê-ri tranh phố cổ Hà Nội để đời mà ai cũng biết với thương hiệu: “phố Phái”. Song, lúc sinh thời, chẳng ban ngành nào đặt hàng danh họa Bùi Xuân Phái vẽ về phố cổ Hà Nội để làm nhiệm vụ kiểu như quảng bá du lịch Thủ đô; ông vẽ chỉ vì nội tâm của ông thôi thúc phải sáng tác về phố cổ-không gian ông cư trú, và cũng vì vẻ đẹp phố cổ giàu chất tạo hình mở ra những cảm hứng sáng tạo. Ngoài đề tài, danh họa còn trăn trở để tìm kiếm cách biểu đạt phố cổ độc đáo, không “giẫm chân” bất cứ đồng nghiệp nào khác.

Nói vậy, phải chăng các cuộc vận động sáng tác là không cần thiết? Việc vận động sáng tác cần phải duy trì song có lẽ nên điều chỉnh một số điểm tránh lãng phí thời gian và tiền bạc; chẳng hạn, việc đưa các nghệ sĩ đi thực tế chỉ độ một tuần lễ như ở một số cuộc vận động đã làm là điều vô ích vì với khoảng thời gian ngắn như vậy thì tìm hiểu được gì? Nhập tâm được gì? Nếu nghệ sĩ đã định sáng tác về đề tài nào đó thì anh ta đã suy tư dài lâu đến độ “mất ăn mất ngủ” từ trước chứ không cần đến việc đi thực tế mới có thể sáng tác hay. Diễn giải như vậy để nói lên rằng chỉ một khi nội tâm người nghệ sĩ “đặt hàng” cho chính anh ta, và anh ta dồn hết tâm huyết sáng tạo với ham muốn hoàn thành “đơn đặt hàng” thì may ra mới có tác phẩm lớn.

Vậy, hễ cứ bị (hay được) yêu cầu giải “đề bài” xa lạ thì nghệ sĩ chỉ có nước… “bỏ thi”? Không hẳn như vậy! Với những nghệ sĩ có tài, cộng với chiêm nghiệm đề tài lâu dài thì đến một lúc nào đó một đề tài lạ bỗng thành quen và từ đó có thể có tác phẩm hay. Thực tế văn học thời kỳ 1945-1975 có vô số ví dụ để minh chứng như: Thơ Tố Hữu, thơ Chế Lan Viên, thơ Phạm Tiến Duật hay tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc… Yêu cầu mới của thời đại lúc bấy giờ cần có tác phẩm văn chương phản ánh khí thế của cả dân tộc quyết tâm thống nhất đất nước. Thật may mắn, yêu cầu của thời đại lại trùng khớp với nội tâm đang thôi thúc những nghệ sĩ thời đó phải có tác phẩm góp phần cổ vũ sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Song, cần nhắc lại, đề tài tâm đắc chỉ là sự khởi đầu cho sự hình thành nội dung tác phẩm, phần quan trọng không kém chính là các hình thức tương thích để biểu đạt nội dung. Chỉ khi nội dung và hình thức là một chỉnh thể không thể tách rời thì mới đích thực là tác phẩm lớn. Các tác phẩm văn học thời kỳ 1945-1975 nêu trên cũng có thể lấy ví dụ cho việc chọn được hình thức thích hợp với nội dung.

Thế nhưng, đó là thời đại đó khi đất nước “có chung khuôn mặt, có chung tâm hồn” (ý thơ Chế Lan Viên). Ngày nay, mỗi tầng lớp, lứa tuổi lại có những ám ảnh riêng khiến bản thân người nghệ sĩ có nhiều đề tài để sáng tác cho nhu cầu của nhiều đối tượng khác nhau. Nhưng dù viết về đề tài gì đi nữa, cũng phải xuất phát từ nội tâm “đặt hàng”.

HÀM ĐAN

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2010

NHÌN LẠI GIẢI THƯỞNG SÁCH VIỆT NAM LẦN THỨ VI-2010: ĐĂNG QUANG XỨNG ĐÁNG

Qua 6 lần tổ chức, Giải thưởng sách Việt Nam (GTSVN) đã được ghi nhận là một trong những giải thưởng hiếm hoi trong lĩnh vực văn hóa tạo được uy tín đến mức dư luận phải ngóng chờ kết quả. Năm nay cũng là năm cuối cùng thực hiện Đề án GTSVN giai đoạn 2005-2010, bên cạnh những bước tiến vượt bậc, GTSVN cũng tồn tại những hạn chế cần có sự chung tay giải quyết của nhiều ban ngành.

Khách quan trong tuyển chọn

Vẫn theo thông lệ, GTSVN 2010 do Hội xuất bản Việt Nam tổ chức được chia thành hai hạng mục chính: Sách hay và Sách đẹp, ngoài ra còn có giải dành cho Bìa đẹp. Năm nay, 33 nhà xuất bản (chiếm 65% tổng số các nhà xuất bản) có đủ điều kiện tham gia dự với 275 cuốn xuất bản trong năm 2009. Để xét giải một cách công bằng, chọn trúng các sách hay và đẹp, 42 ủy viên xét giải gồm những chuyên gia, những nhà quản lý có uy tín như: GS-VS Phạm Minh Hạc, GS-VS Nguyễn Duy Quý, GS Phạm Tất Dong, GS Phạm Đức Dương, GS Tô Ngọc Thanh, GS Chu Hảo, nhà văn Vũ Tú Nam, họa sĩ Trần Khánh Chương… được chia làm 7 tiểu ban trong đó có: 1 tiểu ban (TB) Sách đẹp và 6 TB sách hay (Lý luận-Chính trị, Văn hóa-nghệ thuật, Giáo dục-Đào tạo, Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa học cộng nghệ, Thiếu nhi) đã làm việc ròng rã nhiều tháng trời.

Trải qua các vòng sơ khảo và chung khảo, Hội đồng GTSVN đã họp phiên toàn thể để bỏ phiếu kín bầu chọn sách đoạt giải. Kết quả là: 37 sách hay (7 giải Vàng, 8 giải Bạc, 15 giải Đồng, 7 giải Khuyến khích); 40 giải sách đẹp (4 giải Vàng, 8 giải Bạc, 13 giải Đồng, 12 giải Khuyến khích và 3 giải Bìa đẹp).

Ở hạng mục Sách hay, so với năm 2009 số giải Vàng tăng thêm. Nhìn chung, những cuốn sách đoạt giải đều là những tác phẩm có giá trị lý luận, khoa học và thực tiễn cao, là những công trình nghiên cứu, sưu tầm biên soạn công phu, có nhiều nét mới trong sáng tạo. Đơn cử, Bộ bản đồ Địa lý-Lịch sử trung học cơ sở (Nhiều tác giả, NXB Giáo dục) đã hệ thống hóa địa lý và lịch sử bằng sơ đồ tạo được hứng thú học tập cho học sinh ở hai môn học vốn bị cho là khô khan. Giải Sách hay cũng chú trọng tôn vinh các đóng góp thầm lặng của các tác giả ít được dư luận chú ý như trao giải Vàng cho Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi (Trần Hoài Dương tuyển chọn, NXB Trẻ).

Ở hạng mục Sách đẹp, các cuốn sách đều có chất lượng tốt về nghệ thuật trình bày, kỹ thuật in ấn và đa dạng về kích thước. Về trình bày ruột sách đã có thêm những họa tiết trang trí vào các số trang, hàng tít đầu trang hoặc khoảng trống ở đầu hoặc cuối chương làm cho trang chữ sinh động, hấp dẫn hơn.

Năm nay, hai cuốn sách Chùa Việt Nam (NXB Thế giới) và Bộ bản đồ Địa lý-Lịch sử trung học cơ sở (NXB Giáo dục) giành “cú đúp” giải Vàng ở cả hai hạng mục bởi vừa có tính sáng tạo trong ý tưởng vừa có học thuật và ứng dụng cao, đồng thời có tư liệu hình ảnh được trình bày nghệ thuật. Giải “đúp” của hai cuốn sách trên cho thấy sự tiến bộ của ngành xuất bản Việt Nam trong năm qua đã tiệm cận tới quan niệm sách hay phải đồng thời là sách đẹp.

“Hành trình” mới gian khó

Mới đây, Hội xuất bản Việt Nam đã xây dựng Đề án GTSVN giai đoạn 2011-1015 trình Chính phủ phê duyệt. Đến nay, Chính phủ đã có Quyết định phân bổ dự toán thu chi ngân sách nhà nước năm 2011 cho Hội xuất bản thực hiện GTSVN năm 2011. Như vậy, những người yêu sách có thể yên tâm bởi GTSVN vẫn tiếp tục duy trì chí ít đến năm 2015.

Dĩ nhiên, bước vào một giai đoạn mới, GTSVN cần đổi mới để tăng thêm chất lượng giải thưởng nhằm tôn vinh và cổ vũ những người làm sách; đồng thời cũng đưa thương hiệu GTSVN ngày một thêm uy tín. Theo ông Nguyễn Kiểm (Cục trưởng Cục Xuất bản kiêm Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam), dự kiến ở GTSVN lần tới sẽ có giải dành cho các sách nước ngoài dịch sang tiếng Việt và sách Việt Nam dịch ra các ngoại ngữ nhằm ghi nhận các đóng góp âm thầm của các dịch giả. Ngoài ra, GTSVN còn sẽ có giải thưởng cho Biên tập viên bởi họ chính là những “bà đỡ” cho ra đời những cuốn sách có giá trị…

Song để thực hiện các dự định trên cần phải có tiền để trao thưởng cho các hạng mục mới. Cái khó nằm ở chỗ hiện tại giá trị giải thưởng còn quá khiêm tốn với giải cao nhất là 15 triệu đồng. Năm ngoái, khi bộ Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long (NXB Văn hóa-Thông tin) đoạt giải Đặc biệt thì số tiền thưởng 15 triệu đồng chia cho 1200 tác giả và cộng tác viên thì quá ít ỏi nhưng thật may Chính phủ đã chi thêm 1,5 tỷ đồng thưởng thêm cho tập thể tác giả. Những người tâm huyết với GTSVN thừa hiểu rất khó có lần thứ hai “biệt đãi”, nên tinh thần chung vẫn phải “tự thân vận động”. Theo ông Nguyễn Kiểm, nếu muốn mở rộng quy mô giải thưởng không thể trích từ nguồn kinh phí được cấp ít ỏi. Ông Kiểm thậm chí còn công khai cho biết quỹ của Hội xuất bản Việt Nam chỉ còn... 5 triệu đồng và hiện tại Hội đang phải mở chiến dịch... đi “xin tiền”. Chủ trương xã hội hóa GTSVN được xem là giải pháp khả dĩ nhất để giải quyết bài toán “đầu tiên”. Xã hội hóa giải thưởng theo ông Kiểm cũng không đơn giản vì “thi người đẹp chân dài thì còn dễ kêu tài trợ, chứ thi “hoa hậu sách”, mấy ai người ta mặn mà!”.

Với những vướng mắc mới nêu trên, có thể thấy “hành trình” GTSVN giai đọan 2011-2015 được dự báo sẽ đầy gian khó. Sẽ thật đáng tiếc nếu một giải thưởng giàu tính nhân văn và có tiếng là nghiêm túc lại rơi vào tình cảnh “giậm chân tại chỗ”. Trách nhiệm nâng tầm GTSVN hiện tại đã quá sức với Hội xuất bản Việt Nam-những người chỉ thuần túy thẩm định giá trị sách hay, sách đẹp. Hy vọng những “Mạnh Thường Quân” và các ban ngành khác cần vào cuộc “tiếp sức” cho GTSVN lớn mạnh.

BOX:

Giải Vàng Sách hay: Bộ bản đồ Địa lý-Lịch sử trung học cơ sở, Chùa việt Nam, Bí mật đằng sau nhục thân của thiền sư (Nguyễn Lân Cường, NXB Thế giới), Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, HIV/AIDS-tổng hợp, cập nhật và hiện tại (GS-VS-BS Phạm Song, NXB Y học), Địa chất và tài nguyên Việt Nam (Nhiều tác giả, NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ), Nhà văn của em (5 tập, Nhiều tác giả, NXB Kim Đồng).

Giải Vàng Sách đẹp: Bộ bản đồ Địa lý-Lịch sử trung học cơ sở, Chùa Việt Nam, Tranh tượng khỏa thân (Nhiều tác giả, NXB Văn hóa-Thông tin), Chuyện ngày xưa-100 cổ tích (Tô Hoài, NXB Kim Đồng)

Giải Bìa đẹp: Những bài học tốt (10 tập, NXB Kim Đồng, họa sĩ bìa: Trần Minh Tâm), Mi tiên vấn đáp (NXB Phương Đông, họa sĩ bìa: Mai Quế Vũ), Bước chân hoàn vũ (NXB Công an nhân dân, họa sĩ bìa: Harry Nguyễn-Nghĩa RT)

HÀM ĐAN

Thứ Năm, 16 tháng 12, 2010

LÀM MỚI NGỤ NGÔN

Vở kịch Tương tác do 29 sinh viên năm thứ 3 Khoa Sân khấu (Trường đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội) trình diễn tối 14-12 có thể xem là một điểm nhấn đáng chú ý của sân khấu Thủ đô vào cuối năm. Vở kịch có sự hợp tác với Trung tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội (L’Espace) với kịch bản và sự chỉ đạo diễn xuất của đạo diễn đến từ Pháp Jean-Marie Lejude.

Vở kịch Tương tác thực chất là sự kết nối liên hoàn hơn 20 vở kịch mi-ni lấy cảm hứng từ những câu chuyện ngụ ngôn của nhà thơ ngụ ngôn người Pháp vĩ đại Jean de La Fontaine (1621-1695). Chọn chất liệu trên chứng tỏ sự khôn ngoan của biên kịch khi giúp người xem Việt Nam tiếp xúc với nội dung quen thuộc bởi truyện ngụ ngôn La Fontaine đã “ăn sâu” vào kí ức người Việt đến nỗi nếu không tìm hiểu hẳn nhiều người lại nhầm truyện Con ve và con kiến là truyện dân gian Việt Nam. Nhưng sự quen thuộc ở chất liệu cũng là sự khó khăn để vở kịch thành công nếu không làm mới truyện ngụ ngôn La Fontaine. “Đề bài” làm mới nội dung ngụ ngôn đã được ê-kíp vở kịch giải quyết một cách xuất sắc dựa trên những thủ pháp của kịch nghệ hậu hiện đại; bởi một đặc trưng quan trọng của văn hóa hậu hiện đại chính là “làm lại” các tác phẩm cũ dựa trên những cách biểu đạt và điểm nhìn mới mẻ.



Điểm đầu tiên của sự làm mới chính là ý đồ hình thức hóa vở kịch trở thành một sô truyền hình trực tiếp kể truyện ngụ ngôn La Fontaine thế nên thiết kế sân khấu đã dựng các khung vuông bao quanh sân khấu giống như khuôn hình ti-vi. Mặt khác khi “giả” làm một sô truyền hình nên biên kịch đã “mạnh tay” xen giữa các màn kịch mi-ni thêm hai mục quảng cáo là hai vở kịch hài ngắn nói thuốc diệt chuột và bột giặt lấy điển tích từ vở chèo Quan âm thị kính và truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Chúng vừa giúp khán giả đỡ “mệt” khi thưởng thức các triết lý ngụ ngôn; đồng thời tạo thêm sự đa dạng trong nội dung vở kịch. Ngoài ra, suốt chương trình còn có một M.C vừa giới thiệu nội dung các vở kịch vừa giao lưu với nhà thơ La Fontaine đã hơn… 300 tuổi. Những điểm phụ trợ cho vở kịch như âm nhạc, phục trang hay ánh sáng và các hình động trên màn hình đều lấy cảm hứng ở thời hiện đại, xóa nhòa khoảng cách thời gian hơn 3 thế kỷ của nội dung các truyện ngụ ngôn.

Những điểm làm mới vở kịch vừa nêu trên thực ra chỉ là “râu ria”, điểm quan trọng vẫn chính là cách thức làm mới các màn kịch mi-ni. Lần lượt, ở mỗi màn kịch đều có một diễn viên kiêm luôn người kể câu chuyện ngụ ngôn góp phần tạo ra sự tương tác với khán giả. Điều cố tình “vi phạm” phương pháp tự sự kịch truyền thống khi người dẫn truyện vốn ẩn mình đằng sau cánh gà. Sự “vi phạm” còn được thể hiện qua các tình huống kịch như ở màn kịch Bình sắt và bình đất. Sau khi bình đất vỡ tan khi va vào bình sắt thể hiện qua hành động ước lệ là nam diễn viên hóa thân là bình đất nằm xuống sàn diễn; để nói về triết ký của câu chuyện, diễn viên bỗng “sống” lại nói với khán giả: “Ở đời không nên chơi với người ngang bằng mình nếu không muốn gặp phải tai họa như bình đất”; rồi lại nằm vật xuống sàn “chết” hẳn.

Một khía cạnh được làm mới là sự Việt hóa các triết lý của văn hóa Pháp qua hoàn cảnh đương đại ở Việt Nam như trong màn kịch của truyện Thỏ và rùa được lồng vào cảnh đua xe của một số thanh niên ăn chơi, kèm theo tiếng loa của lực lượng giữ gìn an toàn giao thông: “Đề nghị các phương tiện tham gia giao thông đi chậm lại…”. Ngoài các triết lý vốn có sẵn trong các công chuyện mà khán giả có thể rút ra dễ dàng, vở kịch còn lồng ghép các thông điệp tiến bộ cho thời đại như về bảo vệ môi trường…

Thành công vở diễn được thể hiện ở việc ghế ngồi ở Nhà hát Lớn tối hôm đó đã được lấp đầy và không có ai bỏ về giữa chừng. Thành công của vở kịch mở ra một lối đi mới cho kịch nói; qua đó kéo khán giả quanh trở lại với ánh đèn sân khấu. Song, nên nhớ, vở kịch vẫn do một người Pháp viết kịch bản và đạo diễn. Điều đó càng làm cho những người trong ngành sân khấu ở nước ta càng ý thức ráo riết hơn ở việc cách tân nghệ thuật và giới thiệu những thành quả cách tân đến với đông đảo khán giả chứ không chỉ tồn tại mỗi một buổi diễn.

HÀM ĐAN

Thứ Tư, 15 tháng 12, 2010

MUA VÉ TRẬN BÁN KẾT LƯỢT VỀ VIỆT NAM – MA-LAI-XI-A: VẪN PHẢI XẾP HÀNG

Do toàn bộ 4 vạn vé mà Liên đoàn bóng đá châu Á (AFF) hứa phân phối cho Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) mới chỉ nhận được chưa tới 1/3. Do đó, VFF buộc phải thay đổi lịch bán vé sang ngày 16-12. Giá vé sẽ có 4 mức: 100.000, 200.000, 300.000 và 400.000 đồng. Hiện tại nếu muốn mua vé trận lượt về giữa Việt Nam và Ma-lai-xi-a (19 giờ ngày 18-12) có 5 phương thức:

Đầu tiên qua đường công văn. Các đơn vị bắt đầu từ 8 giờ 30 phút đến 16 ngày 16-12 và từ 8 giờ 30 phút đến 11giờ 30 ngày 17-12.

Phương thức thứ 2 dự đoán sẽ rất đông người tìm đến là tại quầy bán vé tại SVĐQG Mỹ Đình. Thời gian bán vé từ 8 giờ 30 phút ngày 16-12. Mỗi người mua chỉ được 1 tích-kê tức chỉ được mua 2 vé.

Phương thức thứ 3 chỉ dành cho thương binh. Quầy bán vé sẽ đặt trong SVĐQG Mỹ Đình. Thời gian bán vé từ 8 giờ 30 phút ngày 16-12 đến khi hết vé. Mỗi người được mua tối đa 2 vé. Đương nhiên, chỉ chính người thương binh mới được mua vé chứ không được cho người khác mượn thẻ, và mang theo bản phôtô thẻ thương binh và bản gốc thẻ thương binh để đối chiếu.

Phương thức thứ 4 qua website: www.aleale.com.vn. Thời gian trả vé từ ngày 16-12. Sáng từ 9 giờ đến 11 giờ, chiều từ 14 giờ đến 16 giờ 30 phút. Mỗi người được mua tối đa 2 vé. Tất cả các lệnh đặt vé sẽ hết hiệu trước giờ bóng lăn 48 tiếng. Nếu khán giả chuyển 100% tiền thì vẫn có thể đến nhận vé trước giờ bóng lăn 10 tiếng. Tài khoản và nội dung chuyển tiền đặt cọc mua vé qua mạng như sau: Đơn vị hưởng thụ: Công ty Cổ phần phát triển bóng đá Việt Nam (Số Tài khoản: 002.1.00.0814079 tại Vietcombank Hà Nội, Chi nhánh Thành Công); nội dung chuyển tiền như sau: Mua vé AFF Cup 2010[họ tên] [Mã số đặt vé] [Số chứng minh nhân dân]. Mã số đặt vé là mã số ngẫu nhiên được sinh khi lệnh đặt vé thành công.

Phương thức cuối cùng là qua nhắn tin tổng đài. Thời gian dự kiến nhận tin nhắn đăng ký mua vé từ 9 giờ ngày 15-12. Tra cứu vé nhắn tin theo cú pháp: GV gửi 8142. Đặt mua vé nhắn tin theo cú pháp: VN [vị trí] [số CMTND] gửi 8742. Mọi thông tin chi tiết về cách đặt vé và nhận vé được cập nhật trên Website: http://360dothethao.vn hoặc liên hệ 19001773. Khách hàng đặt vé thành công sẽ thanh toán bằng chuyển khoản hoặc tiền mặt khi đến nhận vé. Sau 24 tiếng khách hàng không thanh toán thì lệnh đặt vé bị hủy bỏ. Vé được trả tại: Công ty TNHH dịch vụ truyền hình viễn thông Việt Nam (Tầng 2 tòa nhà Biển Bắc, 1070 Đê La Thành, Hà Nội).

Hai phương thức là mua qua mạng và nhắn tin qua tổng đài ít được người hâm mộ quan tâm bởi do vấn đề kỹ thuật hay bị quá tải. Như vậy, cảnh tượng đoàn người chen chúc mua vé ở trận Việt Nam và Ma-lai-xi-a vẫn chưa có lời giải.

HÀM ĐAN

Thứ Hai, 13 tháng 12, 2010

THỜI ĐÀM (IV): "SỐNG" NHỜ GIAI THOẠI

Văn chương là lĩnh vực xảy ra nhiều vụ cãi cọ, biết làm sao được khi “văn mình vợ người”, đã thế “năm người mười ý”. Nhìn lại những vụ cãi cọ gần đây mới thấy các nhân vật chính của các vụ “võ mồm” chỉ quanh quẩn ở một vài gương mặt lý luận-phê bình quen thuộc. Tần số xuất hiện của các vị nhiều đến nỗi hễ văn đàn “dậy sóng” cánh phóng viên lại nhao nhao tìm đến họ để xin… kết luận cuối cùng. Nghiễm nhiên, tên tuổi các nhà lý luận-phê bình sáng chói, người đọc vô cùng tin tưởng ở những phát ngôn của họ bởi vì thấy họ xuất hiện nhiều trên báo và ti-vi.

Nhưng nếu bình tâm lại, điền tên các vị lý luận-phê bình hay “cả giọng” vào mục “tra cứu sách” trên website của Thư viện Quốc gia ta bỗng nhận ra một sự thật bất ngờ: Các vị trên không có cuốn sách nào về chuyên môn lý luận-phê bình; nếu có thì chỉ là tập hợp các bài viết lẻ trên báo chứ không phải là một chuyên luận mang tính hệ thống dựa trên các phương pháp phê bình khoa học. Vậy, cái sự hành nghề của họ đa phần chỉ bằng “nói”. “Nói” chính là phần quan trọng tạo ra những giai thoại văn chương xung quanh họ và đưa tên tuổi lên đẳng cấp hạng nhất. Nhiều người có hiểu biết văn chương cũng thường không phân biệt người nào đích thực là nhà lý luận-phê bình, người nào chỉ là “ngụy” lý luận-phê bình. Bởi lẽ nhiều người cho đến tận giờ, chưa bao giờ trút bỏ được tâm thức huyền thoại. Sự huyền thoại hóa sự thật và sự thật hóa huyền thoại thường tồn tại dưới dạng giai thoại. Vì thế, ở nước ta, bất kỳ một nhân vật nổi tiếng nào chẳng kể văn nghệ sĩ bao giờ cũng nổi lên trước hết bằng giai thoại.

Đừng hiểu giai thoại văn học chỉ là những chuyện vui về thói quen, cách sống của nhà văn kiểu như Lưu Trọng Lư quên mất tên con, Xuân Diệu trước viết bài đều tẩm bổ bằng thịt chó chợ Hàng Da… Giai thoại đôi khi chỉ là câu nói “sốc”. Một đồn mười, mười đồn trăm; cứ thế, người ta cứ rỉ tai nhau về câu nói kèm theo chú thích về tác giả: “ông X nói vậy”. Nếu ngẫm nghĩ về trong các câu nói, các định ngữ đang được lan tràn thành giai thoại không khó nhận ra chúng không hề có giá trị thao tác khoa học, chúng là những từ ngữ vô tích sự trong việc nghiên cứu văn chương.

Hẳn nhiên các nhà lý luận-phê bình không có công trình khoa học trên lại quá khôn ngoan trong việc nắm bắt thời cuộc. Ai cũng biết người Việt Nam vốn không có óc tư biện, ngại lý thuyết, thích những gì dễ hiểu và thực tiễn trước mắt. Khi cần đánh giá một vấn đề nào thường tư duy cảm tính và bằng ngôn ngữ phi khoa học như nói về thuyết nhân quả cứ dùng hình tượng “cha nào con nấy”. Các nhà lý luận-phê bình lười nhác quá nắm rõ điều này nên họ hiểu muốn thành danh sớm chỉ có cách “đốt cháy giai đoạn” đó là không nên làm việc theo cách của trí thức hàn lâm ngồi nghiên cứu khoa học văn chương, thay vào đó là xông vào các cuộc tranh luận, sử dụng lối nói “đao búa”, ngôn từ dễ hiểu mà gây ấn tượng mạnh với người đọc. Đó là chưa kể vài “trò mèo” khác nào là sách chưa xuất bản đã cố tình để lộ thông tin cho một vài nhà báo biết để đến phỏng vấn rồi “ba hoa chích chòe” về tác phẩm chưa ra đời gần như đăng một cái tin quảng cáo; không ai lăng xê tên tuổi đành nhờ bạn thân hoặc đám đệ tử lấy bút danh giời ơi nào đó viết bài “bốc thơm”… Càng ngẫm càng thấy các nhà lý luận-phê bình trên thật giống các chân dài làng giải trí, cố tình “lộ hàng”, cố tình nói “sốc” để đánh bóng tên tuổi.

Song, xét cho cùng, cái khôn của các vị cũng chỉ là cái khôn bình dân, chiến lược của họ chỉ là trò “tàu nhanh” kiểu quảng canh không thể hợp với cái nghề lý luận-phê bình luôn phải dằn lòng, kiên trì nghiên cứu đợi ngày công bố tác phẩm. Văn học dù có nghiệt ngã, khó khăn với những người đã theo đuổi nhưng rất công bằng, kể cả với những người làm lý luận-phê bình. Tên tuổi còn lại chính là ở giá trị tác phẩm, công trình đã viết. Chẳng cần lấy ví dụ ở đâu cho xa xôi, ngay ở nước ta vài chục năm trước những nhà phê bình nổi như cồn được mệnh danh là “xe tăng phê bình” thì nay chẳng còn ai nhắc đến, công trình của họ chẳng ai tìm đọc và trích dẫn. Vậy nên, dễ hiểu vì sao những nhà lý luận-phê bình đích thực chẳng ai hơi đâu mất thời gian đi tranh luận với những đồng nghiệp khôn lỏi ấy; bởi họ thừa hiểu tên tuổi được tạo bằng giai thoại chứ không bằng giá trị tác phẩm chắc chắn chỉ là thời thượng mà chẳng thể lâu dài với thời gian.

HOÀNG BÌNH PHƯƠNG

Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010

ÁC MỘNG CỦA NGƯỜI THÁI!

BẢNG A AFF SUZUKI CUP 2010

In-đô-nê-xi-a – Thái Lan: 2-1

Ma-lai-xi-a – Lào: 4-1

Ở lượt đấu cuối bảng A giữa In-đô-nê-xi-a – Thái Lan và Ma-lai-xi-a – Lào đều diễn ra vào 19 giờ 30 (giờ Việt Nam). Dù In-đô-nê-xi-a đã chắc suất lọt vào bán kết, song HLV A. Rield vẫn tung ra sân đội hình mạnh nhất để hạ gục “ngáo ộp” một thời của bóng đá Đông Nam Á. Về phía Thái Lan, dĩ nhiên chỉ có chiến thắng thì họ mới chắc chắn đi tiếp. Song, cả hai đội đều trình diễn một thế trận nhạt nhẽo nhất từ đầu giải. Mãi đến phút 68, Su-ri Su-kha có sút vô lê hiểm hóc mở toang cánh cửa vào bán kết. Đến lúc này, In-đô-nê-xi-a mới trở lại lối chơi “rực lửa” thể hiện từ đầu giải. Sức ép liên tục của In-đô-nê-xi-a cộng với sự chỉ đạo chiến thuật sai lầm là lui về phòng thủ để bảo toàn cách biệt một bàn của cựu huyền thoại M.U B.Robson đã khiến người Thái phải trả giá đắt. Phút 79 và 88, In-đô-nê-xi-a đã có liền 2 bàn thắng từ chấm 11m đều do Bang-ban Ba-mu-cát thực hiện. Bị dẫn bàn và mất người sau khi hậu vệ Pa-nu-pông nhận thẻ đỏ, Thái Lan đã không thể gượng dậy và chấp nhận bị loại từ vòng bảng. Với người Thái, AFF Suzuki Cup 2010 chẳng khác gì “ác mộng”; song, với lối chơi nhạt nhoà từ đầu giải, thất bại cay đắng trên là không phải là “tai nạn”. Và càng logic hơn nếu xâu chuỗi những thất bại ở các giải đấu gần đây thì rõ ràng bóng đá Thái Lan đang có “vấn đề”; họ cần phải thức tỉnh thoát khỏi những hào quang chiến thắng từ quá khứ để làm lại từ đầu. Có lẽ, câu nói “Thái Lan, xưa rồi” sẽ thành câu cửa miệng từ hôm nay.

Ở trận đấu cùng giờ, kịch bản bất ngờ đã không xảy ra. Lào đã không thể là một “ngựa ô” ở bảng A khi tiếp tục vỡ trận trước Ma-lai-xi-a đang khát điểm để so bì với người Thái. Lần lượt 4 bàn thắng của Ma-lai-xi-a được ghi rất dễ dàng, Lào chỉ có 1 bàn thắng danh dự để chia tay. Với thất bại của người Thái, ở bảng A, In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a la hai đội lọt vào bán kết.

HÀM ĐAN

Thứ Sáu, 3 tháng 12, 2010

E-BOOK, XU HƯỚNG MỚI CỦA VĂN HÓA ĐỌC

Thiết bị đọc sách điện tử (e-reader) chuyên dụng ra đời cách đây 6 năm được xem như một sự đột phá của công nghệ cao; đồng thời, nó cũng chính thức đưa sách điện tử (e-book) trở thành một sản phẩm thông dụng, phương thức đọc này đã trở thành cú huých văn hóa đọc theo chiều hướng tích cực.

Trăm điều lợi!

Trước khi có e-reader, nhiều người đã đọc các tài liệu và các sách trên các thiết bị điện tử khác như máy tính, điện thoại di động. Song, mục đích sản xuất thiết bị trên không phải dành cho đọc sách nên nó có những hạn chế như màn hình quá nhỏ, không lật trang dễ dàng, không chỉnh sửa hay đánh dấu trang, không bổ sung đường dẫn…

Cùng với việc số hóa tài liệu và biến chúng trở thành sản phẩm của thương mại điện tử, hơn chục nhà sản xuất cũng bắt tay vào việc sản xuất e-reader với chức năng chính là đọc sách. Sau vài năm cạnh tranh, chỉ có các “đại gia” như Sony, Amazon, Samsung, Barnes & Noble nổi lên cùng nhau chia “miếng bánh” thị phần e-reader với các nhãn hàng như Kindle, Reader Touch Edition, Papyrus, Nook lừng lẫy.

Theo báo cáo của Hãng nghiên cứu thị trường Yankee Group, 8 tháng đầu năm 2010 đã có 6 triệu e-reader được tiêu thụ, theo dự báo doanh số sẽ là 19 triệu vào năm 2013. Doanh thu tăng bởi sự những ưu điểm vượt trội của việc đọc thông qua e-reader so với thói quen đọc sách in.

Đầu tiên là sự tiện dụng của e-reader. Với khối lượng chỉ vài trăm gam, người sử dụng có thể luôn mang theo bên mình. Với dung lượng bộ số khoảng 4GB có thể chứa tới hơn 3000 cuốn sách. Thử tưởng tượng, một người vừa đi học vừa đi làm, số lượng sách và tài liệu cần mag theo là rất lớn. Nếu tất cả gói gọn trong thiết bị e-reader thì thuận tiện biết bao!

Mặt khác, số lượng e-book luôn được cập nhật, thay đổi thường xuyên, ngoài ra còn có thể sửa chữa thông tin để phù hợp với người sử dụng. Việc tải sách từ kho sách chỉ mất vài chục giây tiện hơn việc phải lùng sục các hiệu sách để tìm cuốn sách cần sử dụng. Điểm vượt trội của sách e-book so với sách in là ngoài đọc có thể nghe sách tiếng, xem video bổ sung… Ngoài chức năng chính là đọc sách, e-reader còn có khả năng tích hợp các tiện ích khác lướt web, tra từ điển, tham gia các mạng xã hội như facebook...

Một điểm nữa, theo các nhà xuất bản là e-book tiết kiệm chi phí sản xuất khi một phiên bản e-book có giá thành sản xuất chỉ bằng 2/3, thậm chí là 1/3 so với giá thành một phiên bản sách in. Đã vậy, thời gian cho ra đời một phiên bản e-book nhanh hơn so với sách in và không tốn bột giấy nên có tác động tốt tới môi trường tự nhiên. Và e-book tồn tại trên môi trường mạng nên cũng không cần tốn diện tích nhà kho để chứa như sách in.

Chính vì những ưu điểm trên mà có tới 50% số người sau khi sử dụng e-book không còn dùng sách in nữa (Báo cáo của Công ty nghiên cứu thị trường PR Bowker). Theo TS Christoph Links (trợ lý Ban giám đốc NXB Aufbau – Verlag Berlin và Weimar, người sáng lập NXB Ch.Link) cho biết: theo dự đoán, doanh thu sách điện tự sẽ tăng 15% trong vòng 5 năm tới. Cản trở lớn nhất với sự phát triển của e-book có chăng là thói quen đọc sách trên e-reader còn quá mới mẻ so với thói quen đọc sách in. Nhiều chuyên gia dự đoán, vấn đề chỉ làm ở thời gian, nếu thường xuyên sử dụng e-book thường xuyên người đọc cũng sẽ quen dần như cách người ta làm quen với việc đọc trên giấy và quên hẳn cách đọc trên da thú, thẻ trúc…

E-book ở Việt Nam: “Con đường sáng”

Theo báo cáo từ Vietnam Net Index của Yahoo, vào năm 2010, Việt Nam có 28 triệu người sử dụng internet-đứng thứ 6 châu Á. Sở dĩ, phải đưa số người sử dụng internet để nói về triển vọng số người sử dụng e-book ở Việt Nam bởi phải là người thường xuyên sử dụng internet mới có khả năng tiếp cận “kho” sách e-book. Hiện nay, chưa có thống kê về số người sử dụng e-book ở Việt Nam, nhưng theo anh Thái Sơn (Điều hành tiki shop, A2 Lương Định Của, quận 2, TP Hồ Chí Minh) thì tháng cao điểm cửa hàng bán được vài trăm e-reader. Qua đó, chúng ta có thể thấy việc sử dụng e-book đang dần trở nên quen thuộc.

Những lợi thế khác để e-book phát triển ở Việt Nam trong tương lai có thể kể ra như: Việt Nam là nước đang phát triển, có nhu cầu lớn trong việc học tập, tìm hiểu, nghiên cứu. Cơ cấu dân số Việt Nam thuộc vào loại trẻ nên có khả năng tiếp cận và ưa thích các sản phẩm công nghệ cao. Các đơn vị kinh doanh xuất bản sẽ nắm lấy cơ hội bán e-book nhằm mở rộng thị phần và liên kết xuất bản…

Bên cạnh nhiều thuận lợi, vẫn còn một số thách thức để e-book phát triển ở Việt Nam. Hiện nay, sự kinh doanh sách điện tử là nhỏ lẻ và tự phát; các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản chưa liên kết với nhau để đưa doamh thu e-book tăng trưởng. Mặt khác, giá thành e-reader còn khá cao trên dưới 300 USD/chiếc, trong khi theo chị Tố Linh (Giám đốc Tiếp thị và phát triển kinh doanh của Vinabook.com) cho rằng: E-reader chỉ trở thành một sản phẩm cho đại chúng khi có giá dưới 100 USD/chiếc. Vì vậy, theo quan sát của người điều hành của cửa hàng Hi-tech USA (23 Hàng Bài) cho hay: Hiện nay, những người mua e-reader vẫn là những người từ 20 đến 40 tuổi và thuộc tầng lớp trung lưu.

Ngoài ra, cần phải khắc phục nhược điểm là người dùng e-book vẫn thường xuyên tải những sách không có bản quyền, họ vẫn chưa quen với việc trả phí khi tải e-book mà vẫn thích dùng bản e-book miễn phí. Và, theo ông Ngọc Bình (Phòng pháp chế, Cục Xuất bản) cho hay: Hiện chưa có điều luật quy định việc xử phạt những hành vi vi phạm bản quyền e-book. Những người muốn trả phí e-book đi nữa thì cơ sở hạ tầng thương mại điện tử và thanh toán điện tử chưa cao sẽ là rào cản để cho phân phối e-book.

Những dự đoán chỉ là những dự đoán, song với những ưu điểm tự thân của e-book thì triển vọng cho sự phát triển ở Việt Nam được đánh giá là “con đường sáng”; còn hiện tại, e-book vẫn đang là một nét mới tích cực, giúp người đọc có thêm những sự lựa chọn mới.

HÀM ĐAN

NGA GIÀNH QUYỀN ĐĂNG CAI WORLD CUP 2018: CHIẾN THẮNG KHÔNG BẤT NGỜ

Tối 2-12 giờ Việt Nam, tại trụ sở FIFA ở Du-rích đã công bố nước chủ nhà World Cup 2018 và 2022. Theo đó, Nga là nước chủ nhà của World Cup 2018, 4 năm sau vinh dự này sẽ thuộc về Ca-ta. Chiến thắng của Ca-ta giành quyền đăng cai World Cup 2022 không làm quá nhiều người bất ngờ. Lí do là Ca-ta “đại gia dầu khí” vùng Tây Á, kinh phí hàng tỉ USD để tổ chức World Cup chỉ là “chuyện nhỏ”. Họ cũng sở hữu những sân vận động tuyện vời từng phục vụ ASIAD 15 năm 2006. Mặt khác, đến nay, châu Á mới chỉ một lần tổ chức World Cup vào năm 2002 khi “liên minh” Nhật Bản-Hàn Quốc là đồng chủ nhà, nên Ca-ta được ưu tiên hơn so với những đối thủ đã từng đăng cai gần đây là Hàn Quốc và Hoa Kỳ (từng tổ chức World Cup 1994).

Với Nga, việc Nga trở thành chủ nhà của World Cup 2018 với kết quả 13/22 phiếu ủng hộ khiến nhiều người ngạc nhiên, nhất là khi đánh bại đối thủ sừng sỏ là Anh, liên minh Bỉ-Hà Lan và liên minh Bồ Đào Nha-Tây Ban Nha. Nhưng nếu nhìn tổng thể, việc Nga giành quyền đăng cai ngày hội bóng đá lớn nhất hành tinh là một kết quả tất yếu.

Trong chuyến thị sát tới Nga, các quan chức FIFA có ấn tượng tốt về các sân vận động của nước này. Nga hiện sở hữu 16 sân có sức chứa trên 20.000 chỗ ngồi, trong đó có sân vận động nổi tiếng như: Luzhniki, Dynamo ở Mát-xcơ-va, Republican Spartak ở Vladikavkaz, Sân trung tâm ở Volgograd… Cơ sở hạ tầng khác phục vụ World Cup là đường sá, khách sạn… cũng được đánh giá tốt. Dĩ nhiên, Nga thừa hiểu cần phải chi mạnh tay để nâng cấp và hoàn thiện hơn nữa cơ sở hạ tầng để đảm bảo một kì World Cup hoành tráng không hề kém cạnh các nước khác.

Về kinh nghiệm tổ chức các hoạt động thể thao, Nga và Liên Xô trước đây đều từng thành công với các hoạt động thể thao mang tầm thế giới như Olympic Mát-xcơ-va 1980. Gần nhất, Nga đã tổ chức thành công trận chung kết Champions League 2008 tại sân Luzhniki. Ngoài ra, bóng đá Nga sau thời hậu Liên Xô đang tìm lại sức mạnh trong quá khứ. Đội tuyển Nga lọt vào bán kết Euro 2008; ở cấp câu lạc bộ, CSKA Moskva và FC Zenit Saint Petersburg giành UEFA Cup vào năm 2005 và 2008.

Ngoài lĩnh vực thể thao thì một nguyên nhân khác giúp Nga giành quyền đăng cai World Cup cũng một phần nhờ vị thế chính trị của Nga, đất nước này đang trở lại vị trí “siêu cường” và đi cùng với đó là những đồng rúp dầu mỏ cũng đủ giúp họ không phải suy nghĩ trong việc đăng cai World Cup. Dĩ nhiên, cũng cần thêm những yếu tố khác như Nga chưa lần nào được đăng cai các giải bóng đá lớn như Worlp Cup hay Euro; hay tình yêu bóng đá vô bờ của người Nga… cũng giúp họ nhận được sự “ưu ái” của FIFA.

HÀM ĐAN