Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2009

MA THUẬT NGÓN – MỘT CÁI NHÌN SIÊU THỰC VỀ CUỘC SỐNG


Sau khi biết nhà thơ Trần Tuấn đã cho xuất bản tập Ma thuật ngón dự giải Thơ Bách Việt, tôi lên mạng tìm thêm thông tin và tìm được mấy bài thơ trong tập Ma thuật ngón đã từng đăng rải rác trên các trang web. Hình như, tôi đã từng đọc và đã quên cũng đơn giản là không ai nhớ hết mọi thứ, mọi điều đã đọc (Nhại từ câu nói: Không ai đọc hết mọi thứ, mọi điều của một nhà phê bình tăm tiếng nọ). Có lẽ những bài thơ đăng tải riêng lẻ ấy chưa hiện lên những nét đặc sắc được gây dựng từ Trần Tuấn trong cuộc cách tân thơ sôi động và quyết liệt hiện nay. Thế nhưng, đọc trọn tập Ma thuật ngón ấn tượng về về một tập thơ vững vàng, nhiều thủ pháp (hay nôm na là ngón nghề) có ít nhiều ám ảnh cho phép hình dung để định danh, định tính tác phẩm là điều khả dĩ.

Dài dòng như thế để nói đến điều đáng kể đầu tiên của tập thơ chính là tính hệ thống tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật sống động. Lâu nay, có hiện tượng là các tập thơ dường như chỉ là sự tập hợp các bài thơ đã từng in lẻ tẻ đâu đó. Những tập thơ kiểu trên vẫn có phong cách riêng của tác giả nhưng cái được biểu hiện qua tập thơ là cái nhìn thế giới mang ý thức triết học của nhà thơ thì không rõ ràng, thậm chí không có. Trần Tuấn có một ý thức sắp đặt để khiến mỗi bài thơ là một bộ phận cấu thành nên tập thơ - hệ thống. Ma thuật ngón chia làm ba phần: Phóng sinh từng phần thân thể, Về và Đỉnh rỗng. Ba phần ấy chứa đựng ba tâm thế nhưng chúng không đi theo một đường thẳng.

Điểm khởi đầu là nhà thơ dựng lên một thực tại thế giới hỗn độn và trong đó la liệt các vật chất gồm đồ vật và các bộ phận cơ thể. Môi trường đó “im lặng tuyệt đối”, màu sắc là trầm “vừa chối từ một chuyến nâu”, “thân xác thì đã tan tành” còn ý nghĩ vốn siêu hình cũng đang “siêu âm/ câm/ tìm một bờ Người khác”. Một thế giới đang mục rỗng, tăm tối. Và từ đó dẫn đến hệ quả Phóng sinh từng phần thân thể - mô-típ siêu thoát quen thuộc được lặp lại. Quá trình phóng sinh thân thể ấy diễn ra tự nhiên không có dấu hiệu của sự cưỡng bức.

Một hình thức tất yếu được sử dụng để tương hỗ với nội dung trên là hình thức thơ siêu thực. Thơ siêu thực đặt ra tiêu chí về hình ảnh và cái viết tự động. Những hình ảnh trong thơ siêu thực xây dựng tác dựa trên những thủ pháp như sự tương tự, cái nghịch lý, sự bất ngờ, sự thống nhất những cái không thể thống nhất được chính vì thế mà thơ siêu thực tương đối khó hiểu với cách đọc truyền thống gõ thẳng vào trái tim người đọc. Đó là cách nhà thơ chống lại sự tự động hóa của từ đi hình ảnh mới, lạ hóa từ ngữ. Song thơ siêu thực đòi hỏi ý thức lao động của cái hữu thức dẫn đến sự xuất hiện của những câu thơ vô thức xuất thần rất hiếm. Trong Ma thuật ngón, nhất là phần Phóng sinh từng phần thân thể trần ngập những hình ảnh siêu thực dù đó là cách thể hiện một sự vật:

cột điện gập lưng
bò lê
nôn mửa
bên hài cốt nhà
(Lưỡi bão)
hay siêu hình:
ý nghĩ neo rốn
thả
bào thai
kiệt nước
ý nghĩ tinh cầu
siêu câm
câm
tìm một bờ Người khác
(ý nghĩ (1))

Robert Bréchon trong cuốn Chủ nghĩa siêu thực chỉ ra ba cấp độ xây dựng hình ảnh cơ bản của thơ siêu thực. Trong Ma thuật ngón, hình ảnh thơ siêu thực vẫn ở cấp độ đơn giản đôi khi có những câu thơ theo lối so sánh cụt:

chân mọc tràn
ý nghĩ
dựng bờm đen
(Dọc mù sương)

Hình ảnh siêu thực xuất hiện trong tác phẩm tạo một không khí nghệ thuật đặc biệt, có tính huyền ảo, phi lý, mộng mị chiêm bao... – một cuộc “hợp hoan” giữa thực và siêu thực. Những hình ảnh siêu thực trong Ma thuật ngón vẫn chỉ là bước đầu của chủ nghĩa siêu thực trong vô vàn những thể nghiệm của trường phái.

Sau cuộc phóng sinh và một bước vòng của kí ức: dựng bờm đen ý nghĩ “Về” với “dọc mù sương”, “Vỹ Dạ đạt ma” “để lau một tiếng nói”… Thân thể đã phóng sinh và kí ức tuổi thơ cần cần tẩy đi những nỗi buồn chiến tranh vẫn còn hiện hữu. Làm được vậy mới nhẹ gót bước tới “đỉnh rỗng” nơi mà hư vô thống trị:

mọi ánh sáng đã đựng trong rỗng
mọi âm thanh đã đựng trong rỗng
mọi sắc màu đã đựng trong rỗng
mọi ngôn từ đã đựng trong rỗng
mọi hơi thở đã đựng trong rỗng
và rơi
trong thân thể rỗng
(Đỉnh rỗng)

Nhưng trong sự rỗng cũng có một cuộc phục sinh ngấm ngầm:

từ làn da của tôi mọc lên từng vạt cỏ xanh
hân hoan rễ cỏ mọc sâu vào rỗng không
thân thể
(Đỉnh rỗng)

Quá trình phóng sinh để đạt tới sự rỗng để tách riêng “tôi” với thân xác chứa đựng “thân thể tôi chỉ là nơi trú ngụ của một kẻ đào tẩu xa lạ. xác thân – ngôi nhà hoang đã rời bỏ từ lâu”. Qua đó, để suy ngẫm, phán đoán và tham vọng nhận ra bản chất của tồn tại – một cách phục sinh khác thường:

- tôi nhìn kẻ trú ngụ bằng ý nghĩ sút dây không ổ cắm
- kẻ trú ngụ nhìn tôi bằng chiếc gáy xa lạ
- xác thân nhìn tôi như kẻ quỵt tiền nhà

chỉ một phút giây ấy thôi/ rỗi cứ thế không đầu không thân thể không màu
không mùi vị
tôi đi với hơi thở nhẹ
không ngang qua sự cư trú nào nữa
(Kẻ trú ngụ)

Cuối cùng vẫn là cái đích đến vẫn là sự tự do bởi “tự do bao giờ cũng đẹp” (JMG Le Clézio) không bị bó buộc bởi bất cứ điều gì kể cả những định hướng mang tính phương pháp của suy tưởng.

Trên kia tôi đã thử vẽ lại sự kết nối của bằng cái nhìn thế giới của nhà thơ nhưng còn cấu trúc nghệ thuật của tập thơ Ma thuật ngón vẫn chưa chạm đến.
Ma thuật ngón là một sự cộng sinh của khuynh hướng thơ hiện đại và những yếu tố hậu hiện đại manh nha. Phóng sinh từng phần thân thế là những hình ảnh siêu thực, Về mang tính chất thơ hiện đại “không ý tưởng chỉ vào sự thật” (W. C. Williams) có khả năng truyền đạt trực tiếp như cách sử dụng đàm thoại hàng ngày:

giầy thường cười nhạo bàn chân:
-mày trong ấy thì nhìn thấy gì!
(Ngụ ngôn đường và chân)

Đỉnh rỗng là sự xâm thực của văn xuôi vào thơ khiến cấu trúc thơ nới rộng. Sự nới rộng cấu trúc thơ không phải là hình dáng câu thơ trở nên dài hơn mà chính là ngữ điệu câu thơ tiết nhịp mới:
tôi đóng nước vẫn chảy tôi đóng gió vẫn
vào tôi đóng nhạc vẫn reo tôi đóng mùa
vẫn đến tôi đóng đầy càng rỗng tôi tắt lửa
vẫn cháy tôi tắt bóng vẫn đổ tôi tắt ngày
vẫn sang
(Đỉnh rỗng)

Vật liệu của thơ không còn phải tìm kiếm mà luôn có sẵn bằng cách tái chế thông tin mang tính chất báo chí bằng thủ pháp nhại:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Hôm nay trời nhẹ lên cao Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi Giá đừng có giậu mồng tơi Thì đâu đến nỗi đánh rơi… (mất mấy chữ) Một giáo sư nhận định đó là mạc can phóng dao nhưng vào giai đoạn văn học nào thì chưa xác định”.
(Phóng sinh từng phần thân thể)

Tính cộng sinh dùng dằng trong tập thơ cũng ít nhiều hạn chế khả năng đào sâu, đi đến tận cùng vào một khuynh hướng tìm ra những chiều kích sâu và mới của khuynh hướng đó. Trường hợp Ma thuật ngón cũng tiêu biểu cho cái gọi là chuyển đổi chủ âm trong thơ Việt hiện nay. Có lẽ chủ âm của thơ hiện nay đã chuyển từ ngữ điệu thay cho vần và sơ đồ âm tiết. Nhưng sự xuất hiện của các chủ âm không phải là sự thay thế mà mà gối tiếp nhau bởi sự lắp ghép đã là một đặc tính của văn hóa Việt Nam.

Dẫu vậy, Ma thuật ngón vẫn là tập thơ kết hợp hài hòa các thủ pháp mới, cũ tăng hiệu quả thẩm mỹ và tính nghệ thuật của thơ. Song điều mà tập thơ này đóng góp chính là cố gắng dãi bày được một cách nhìn thế giới bằng thơ có chiều sâu đi vào bản chất qua những hệ chủ đề: những vấn đề mang tính bản thể luận muôn thủa của loài người: tồn tại, sự sống cái chết, ứng xử với quá khứ…

Linh Đàm, 29/ 10/ 2008.
Hàm Đan

"NGƯỜI ĐỌC" - NGƯỜI ĐANG YÊU!


Xuất bản năm 1995, cuốn tiểu thuyết mỏng Người Đọc (Der Vorleser) của Bernhard Schlink trở thành một best-seller quốc tế với 7 triệu bản được bán ra (đã được dịch ra tiếng Việt, đọc online ở đây) và sau đó được dựng thành phim phát hành tháng 1/ 2009 với tên tiếng Anh The Reader.

Người đọc là ai? Là một câu bé 15 tuổi tên là Michael (tên đầy đủ là Michael Berg) thể chất không lấy gì làm cường tráng (chính xác thì mắc bệnh gan). Cậu sống ở một thành phố nhỏ ở Tây Đức - một nửa nước Đức theo CNTB đang phát triển nhanh chóng vào thập niên 60. Gia đình cậu có thể coi là elite của XH với ông bố là GS triết học nghiên cứu về Kant và Hegel.

Đã có người đọc thì phải có người nghe. Người nghe tên là Hanna Schmitz, một phụ nữ làm nghề bán vé tàu điện hơn Michael 21 tuổi. Cô lên Berlin năm 17 tuổi làm công nhân cho hãng Siemens rồi năm 21 tuổi gia nhập quân đội phát xít làm quản ngục tại trại tập trung khét tiếng là Auschwitz và Krakov (Ba Lan).

Họ gặp nhau tình cờ. Mối quan hệ của họ nhanh chóng chuyển sang quan hệ tình dục. Dần dà đã trở thành một thứ nghi lễ dâng hiến. Nghi lễ ấy luôn bắt đầu bằng việc hai người tắm chung, rồi Michael đọc sách cho Hanna nghe - thường là một cuốn tiểu thuyết, sau đó là làm tình.

Photobucket

Một ngày kia, Hanna đột ngột biến mất. Michael đau khổ và dằn vặt bởi ý nghĩ vì mình hèn nhát, không dám thừa nhận mối quan hệ tình ái mà Hanna phải bỏ đi. Michael ngày nằo lúc này đã tốt nghiệp phổ thông và trở thành sinh viên luật. Với tư cách là sinh viên dự thính, trong một phiên toà Michael đã bất ngờ gặp lại Hanna - lúc này bị truy tố với tội danh khi làm quản tù đã cùng với các nữ quản tù khác dung túng và tiếp tay giết hại tù nhân ở các trại tập trung.

Phiên toà phải kéo dài vì thiếu bằng chứng cụ thể. Tuy nhiên, cuối cùng người ta cũng tìm ra được thủ phạm chính là Hanna khi chị thừa nhận rằng đã tự tay soạn thảo một biên bản, bằng chứng của tội ác. Khi phiên toà đi vào giai đoạn kết, Michael đã suy nghĩ và chắp nối tất cả các sự kiện có liên quan tới Hanna và anh phát hiện ra rằng, Hanna không thể là người viết biên bản ấy được, bởi đơn giản chị là người mù chữ. Mù chữ - đấy là nỗi xấu hổ lớn nhất của Hanna. Nó giải thích tất cả những hành vi che đậy kì quặc ở chị, khiến chị thà bị kết tội còn hơn là để lộ cái bí mật mà cả đời chị muốn che giấu. Michael đứng trước một hình huống khó xử. Một mặt, anh biết rằng Hanna bị oan và chỉ cần anh gặp quan toà, nói ra sự thật, Hanna sẽ được giảm tội. Nhưng mặt khác, điều đó cũng đồng nghĩa với việc bí mật của Hanna bị phanh phui và chị sẽ phải đối diện với sự khiếm khuyết đầy xấu hổ của mình. Sau những ngày đấu tranh nội tâm, thậm chí hỏi cả ý kiến của bố, Michael đã đi đến quyết định là giữ kín bí mật của Hanna. Kết cục, Hanna bị kết án tù chung thân. Michael tốt nghiệp đại học, làm việc ở ngành lịch sử luật pháp.

Anh kết hôn, có con rồi ly hôn. Suốt thời gian đó, anh không liên hệ với Hanna cũng như không một lần vào thăm chị. Năm thứ 8 khi Hanna ngồi tù, lần đầu tiên Michael gửi cho chị một cuốn băng ghi âm anh đọc truyện. Từ đó đều đặn, cứ vài ba tuần anh lại gửi cho Hanna một băng ghi âm mới. Một ngày kia, nhận được một bức thư: "Truyện vừa gửi hay quá, cậu bé ạ. Cám ơn. Hanna", Michael biết rằng Hanna trong tù đã tự học đọc và viết... Sau 18 năm tù, đơn xin ân xá của Hanna được chấp nhận. Theo thỉnh cầu của bà giám đốc trại giam, Michael đã đến thăm Hanna. Sau cuộc viếng thăm đó, anh đã chuẩn bị những điều kiện cần thiết để Hanna có thể tái hoà nhập với cuộc sống bên ngoài. Nhưng một ngày trước khi được tự do, Hanna đã treo cổ tự tử.

Một cốt truyện đơn giản nhưng nếu không phân tích kĩ lưỡng thì mỗi chi tiết nhỏ trong truyện nếu đọc lướt sẽ không thể hiểu, từ đó nối liền cấu trúc tổng thể tác phẩm. Cái tài của tiểu thuyết gia là khéo léo sắp đặt tạo ra nhiều tình tiết cất dấu để chính nhân vật xưng tôi và người đọc cuốn sách cùng đi trên một hành trình giải mã bí ẩn của tình yêu, tội ác etc Cũng nên nhớ đến quá khứ tội lỗi dân tộc Đức mà người đại diện là Hanna và một thế hệ không biết tới nó chỉ được nhà văn lướt qua nhưng đủ để tạo ra sự đứt gãy là có thật và đó là mạch ngầm đi dưới một câu chuyện tình mãnh liệt, nghịch lí về tuổi tác. Điều này đã được nhà bác học Erich Fromm đã lí giải trong bài Tâm lí của chủ nghĩa Đức quốc xã (trong cuốn Escape from freedom).

Nói về hậu trường bộ phim một chút, ban đầu người được nhắm vào vai Hanna là Nicole Kidman nhưng cuối cùng diễn viên được lựa chọn là Kate Witslet. Nàng Rose ngày nào trong Titanic giờ đã 33 tuổi rất thích hợp với vai Hanna. Ngoài ngoại hình hoàn mĩ của "vẻ đẹp Anh", Kate Witslet sở hữu sự "cương nghị" biểu cảm trên khuôn mặt. Điều này cực kì cần thiết để nhập vai Hanna bởi đó là tâm trạng cố che dấu sự xấu hổ do mù chữ.

Photobucket

Dù là phim hay truyện, chúng ta đều dễ dàng nhận thấy "người đọc" Michael chỉ có được hạnh phúc khi được ở bên cạnh hoặc nhớ về Hanna. Dù sau đó anh lập gia đình nhưng đó gần như chỉ là một thói quen ( như cách nói "bị thiên nhiên lừa" của Arthur Schopenhauer). Anh chia tay vợ mà không thấy đau khổ. Và khi thành đạt anh cũng không cảm thấy mình hạnh phúc hay thanh thản. Nhưng khi gặp Hanna khi cô vẫn ở trong tù, anh mới nhận ra niềm hạnh phúc vẫn đeo đẳng anh chỉ là quá khứ (mùi trên cơ thể Hanna đã là một bà già y và cảm xúc đó y chang một câu thơ sến của Trần Nhuận Minh, anh trai Trần Đăng Khoa: "Yêu em lúc trẻ gặp khi về già"). Hạnh phúc thật sự, tình yêu thật sự hóa thành vĩnh cửu khi anh ở tuổi 15 trong vai trò của một "người đọc". Khi ấy anh là một người đang yêu!

Tất nhiên, anh vẫn may mắn hơn rất nhiều người. Không chỉ anh đã yêu và đã được yêu mà trong những phút giây tình yêu ngắn ngủi và tưởng là phi lí ấy anh đã yêu hết mình.
Hàm Đan
P/S: Bài review này viết trước khi lễ trao giải Oscar 09 diễn ra. Và giải thưởng duy nhất The Reader nhận được là giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho Kate Winslate trong vai Hanna sau 5 lần đề cử thất bại. Chúc mừng Mrs Kate!

TS CHU HẢO: “KHÁC VỚI CHÍNH THỐNG KHÔNG NHẤT THIẾT LÀ CÁI XẤU”


Người ta biết đến ông là một trong những người vận động đưa internet vào VN thời còn đương chức Thứ trưởng Bộ Khoa học công nghệ & môi trường. Khi ở vào độ tuổi mà các bạn ông đều lui về dưỡng già, ông lại đang là đầu tàu ở NXB Tri thức – nơi hàng năm xuất bản hàng trăm đầu sách công cụ ( hàn lâm, dùng để nhận thức)

LÀM SÁCH THÍCH NHẤT

Thưa, là người đã trải qua nhiều công việc, chức vụ - nhưng quãng thời gian nào ông thấy thích thú nhất?

- TS Chu Hảo: Nói cho công bằng, tất cả những việc tôi đã làm từ trước đến nay may mắn đều đúng nguyện vọng của mình. Tất nhiên, không phải công việc nào cũng trôi chảy, ví dụ như thời tôi làm Trưởng ban quản lí Khu công nghiệp cao Hòa Lạc, công việc rất ách tắc. Đến nay sau 5 năm rời chức vụ, Khu công nghệ cao vẫn chưa hình thành.

Công việc nào khiến tôi thích nhất? Có lẽ là công việc hiện nay. Tôi đề xuất thành lập NXB Tri thức theo những tiêu chí mà tôi mong muốn. Rất may là được các cơ quan chức năng ủng hộ. Làm sách công cụ cho tôi sự hứng khởi như khi góp phần đưa công nghệ thông tin vào VN, vì nó giúp ích cho nhận thức của xã hội. Một số bạn bè nói đùa: “Ông làm sách còn có giá trị nhiều hơn làm Thứ trưởng”.

Trước buổi gặp, tôi thử làm một thao tác search trên google, thì từ khóa “TS Chu Hảo giám đốc” cho kết quả nhiều hơn “TS Chu Hảo thứ trưởng”! Làm sách vừa có lợi cho xã hội, nhưng đồng thời ông cũng nổi tiếng hơn?
- Quả là dạo này tôi vẫn xuất hiện nhiều trên báo chí nhưng “nổi tiếng” thì hết muốn rồi! (cười). Việc làm sách là công việc tâm huyết của tôi. Dù vất vả nhưng lí thú vì thấy rõ sự hưởng ứng của cộng đồng và sự cổ vũ của bạn bè.

Bước vào tuổi xưa nay hiếm, ông bắt tay vào việc chưa có tiền lệ là lập một NXB chuyên sách công cụ. Gia đình ông có lo lắng không ạ?

- Băn khoăn nhiều chứ! Tuổi lớn mà công việc khó khăn. Đã thế những việc tôi đang làm, người không hiểu đánh giá từa tựa câu “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”. Nhưng may mắn là tôi có gia đình êm ấm, thông cảm với công việc của tôi đang làm. Tôi cũng sắp xếp được cuộc sống gia đình thỏa đáng để toàn tâm tập trung cho công việc.

Những người đến 60 tuổi về hưu, mỗi người mỗi cảnh. Tôi nghiệm ra những ai có thói quen lao động trí óc, ham học hỏi, chăm đọc sách, thường không bị hẫng hụt khi về hưu. Về hưu mà không có hoạt động tinh thần tích cực, khó mà duy trì sức khỏe được. Sức khỏe tinh thần đôi khi quan trọng hơn sức khỏe thể chất. Nhiều người về hưu không có điều kiện bồi dưỡng sức khỏe tinh thần nên cuộc sống trở nên nhàm chán, đơn điệu…

CHỜ NHÀ NƯỚC


Thưa TS, nếu tự thân vận động NXB Tri thức có tồn tại được với dòng sách công cụ?

- Khi mới xây dựng, tôi đặt niềm hi vọng vào Quỹ dịch thuật Phan Châu Trinh (nay đã đổi tên thành Quỹ văn hóa) thu hút các nhà tài trợ. Vẫn biết nước ta không có văn hóa “Mạnh Thường Quân” đối với các hoạt động không mấy “đình đám” như việc làm sách, là rất hạn chế, nhưng không ngờ việc đó lại khó khăn đến thế. 35 tỉ đồng trong 10 năm cho Dự án của chúng tôi là quá khiêm tốn, vậy mà hết sức khó khăn.

Hiện nay, tài chính chúng tôi dựa vào tiền vận động từ xã hội. Nhưng chúng tôi hiểu, không thể trông chờ mãi vào tài trợ được. Nên cứ làm dù khó khăn, đợi vài năm nữa khi hiệu quả của dòng sách công cụ đã rõ ràng, sẽ đặt vấn đề xin ngân sách Nhà nước.

Nhưng đến lúc bị phụ thuộc tài chính, liệu những tiêu chí ban đầu của Tri thức có thay đổi?

- Chắc chắn hướng đi của Tri thức sẽ không thay đổi, trước sau chúng tôi vẫn chủ trương xuất bản những sách nghiêm túc. Sự hỗ trợ của Nhà nước là điều tất yếu ở hai lí do. Thứ nhất, là tài chính như đã nói ở trên. Thứ hai, là vấn đề đội ngũ dịch giả chuyên nghiệp. Về lâu dài, muốn có đội ngũ dịch giả giỏi cần phối hợp với Bộ Giáo dục & Đào Tạo để đào tạo lớp dịch giả chuyên nghiệp, không chỉ giỏi ngoại ngữ, mà cần có nền tảng văn hóa vững chắc.

NHÀ XUẤT BẢN TƯ NHÂN ?

Nhiều sách ra đời do NXB Tri thức liên kết với các nhà sách hay công ty sách như Nhã Nam, Phương Nam, Song Thủy, Thái Hà… có phải NXB Tri thức chỉ cấp giấy phép, mà không cần biết đến chất lượng các cuốn sách do mình cấp phép?

- Đúng là hiện nay có một thực tế, có những NXB cấp giấy phép xuất bản cho các nhà sách mà không chú ý đến chất lượng sách. Nguyên tắc của NXB Tri thức là thẩm định bản thảo lần cuối cùng, nếu không có vấn đề gì sẽ tổ chức biên tập trước khi cấp giấy phép xuất bản. Chúng tôi chỉ thu phí quản lí để trả lương cho biên tập viên. Không có chuyện thu tiền cấp giấy phép mà không thẩm định nội dung và biên tập. Các nhà sách đều thừa nhận việc biên tập của chúng tôi đã giúp bản thảo tốt lên. Mặt khác không phải sách gì chúng tôi cũng cấp phép, mà chỉ những sách hợp với tiêu chí của NXB.

Ngoài lượng sách liên kết ra, NXB Tri thức luôn duy trì dòng sách do chính NXB tự làm từ A đến Z chia làm 4 tủ sách: Tinh hoa, Dẫn nhập, Tri thức mới và VN đương đại. Chúng tôi có gắng để sách của mình luôn chiếm tỉ lệ cân bằng so với sách liên kết.

Ông đánh giá vai trò của các công ty sách hiện nay?

- Tôi cho rằng họ có đủ năng lực làm các khâu để cho ra đời những cuốn sách có giá trị. Từ khi các công ty sách ra đời, thị trường sách có sự cạnh tranh thực sự giữa các đơn vị sản xuất và chất lượng sách từ khi có công ty tư nhân đã được nâng cao hơn hẳn từ nội dung, chất lượng giấy, trình bày… Cuối cùng, người đọc được hưởng lời nhiều nhất. Tôi hoàn toàn tán thành việc ra đời NXB tư nhân. Chỉ tiếc Nhà nước chưa cho phép.

SÁCH - THAY ĐỔI TƯ DUY

Lợi ích của các loại sách khác là để giải trí thậm chí, để… học làm giàu. Vậy sách công cụ có lợi ích gì?

- Nó đưa đến cho độc giả kiến thức mới, cách nhìn mới (sách dịch) mà ở ta không có. Sách công cụ để tham khảo. Có nhiều sách tham khảo bổ túc cho người làm công tác nghiên cứu, quản lí họ để đưa ra giải pháp thích hợp. Ví dụ như hiện nay chúng ta đang công nghiệp hóa - hiện đại hóa – đô thị hóa mà thiếu sách cung cấp kiến thức về các học thuyết, các phương pháp quy hoạch ở đô thị, thì từ người làm quy hoạch, người duyệt, người chịu tác động của quy hoạch… sẽ khó đánh giá được chất lượng của đồ án quy hoạch. Mặc dù nó ảnh hưởng trực tiếp, lâu dài đến cuộc sống từng người dân đô thị. Người thiếu kiến thức nền, khi gặp tình huống thực tế, thì loay hoay như gà mắc tóc.

Nhưng quan trọng nhất là sách công cụ cung cấp quan điểm mới để thay đổi tư duy. Cái gì khác với chính thống, khác với truyền thống không nhất thiết phải là xấu. Nhờ những nguồn tham khảo kiến thức và lắng nghe, mà Đảng đã đi đầu trong việc thay đổi tư duy, quyết định chuyển sang nền kinh tế thị trường, hay cho Đảng viên làm kinh tế tư nhân…

Ông đã nhận ra lỗ hổng kiến thức nền từ bao giờ?

- Tôi nhận ra từ sớm, từ khi mới bắt đầu ra công tác, đặc biệt là từ khi có tiếp xúc với các bạn đồng nghiệp nước ngoài. Nhận ra lỗ hổng kiến thức nền không chỉ có tôi. Hồi ấy, trong các Viện trong UB Khoa học nhà nước đều dịch các tài liệu nước ngoài để tham khảo. Nhưng dịch nội bộ thì rất tốn kém. Tôi nghĩ đã dịch thì nên in cho mọi người đọc. Đừng nghĩ rằng sách công cụ chỉ dành cho các nhà nghiên cứu đọc. Trừ những sách quá chuyên sâu như triết học Kant, Hegel… với các sách tham khảo những ai có trình độ phổ thông vững chắc, nếu quan tâm đều có thể đọc được. Ngoài ra chúng tôi còn tổ chức dịch các tác phẩm văn học kinh điển như Cháu ông Rameau của Diderot, Candide của Voltaire …

MẤU CHỐT NẰM Ở GIÁO DỤC

Năm 1957, cuốn sách Những huyền thoại (Mythologies) của Roland Barthes mở đầu cho trường phái ký hiệu học Pháp, được người Pháp đem đọc trong kì nghỉ hè. Tại sao người Việt Nam lại không chịu đọc sách lúc rảnh rỗi, trên bến xe chẳng hạn?

- Vấn đề nằm ở thói quen đọc sách. Thế hệ trẻ ngày nay không có thói quen đọc sách. Thế hệ tôi trước năm 75, dù sách vở không nhiều và cuộc sống thiếu thốn, nhưng nhiều sách kinh điển chúng tôi đều tranh thủ đọc khi có điều kiện. Bởi nền giáo dục lúc đó vẫn còn nhiều điểm tích cực hơn bây giờ. Chẳng hạn, chúng tôi không bị nhồi nhét quá nhiều kiến thức như bây giờ, không bị áp lực thi cử nặng nề như bây giờ, và vì vậy có thì giờ đọc sách.

Vậy giải pháp là phải dạy thói quen đọc sách cho học sinh?

- Nhưng ai dạy cho trẻ con đây? Giáo dục ở nhà trường hiện nay chỉ chăm chăm dạy kiến thức chạy theo thi cử, học để lấy bằng. Ở nước ngoài, ngay từ cấp tiểu học đã dạy trẻ con đọc sách như thế nào, rồi cho chúng cùng bàn luận về cuốn sách được hướng dẫn đọc. Đến cấp phổ thông, học sinh phải tự đọc sách rút ra tóm tắt và viết một bài viết về cuốn sách đó. Tôi lấy ví dụ bộ sách nhập môn về khoa học xã hội do NXB Trẻ đã in, dù trình bày sáng sủa dễ hiểu dưới hình thức truyện tranh, nhưng lại rất khó bán. Có người ở phổ thông là học sinh giỏi thi đỗ đại học, mà vẫn chưa hề nghe đến các sách nhập môn của chính ngành mình sẽ học ở đại học. Trong khi đó, học sinh phổ thông nước ngoài đã biết phần nào những kiến thức nhập môn để lên đại học sẽ nghiên cứu sâu.

Đã thế, hiện nay ở nước ta khái niệm nghiên cứu khoa học hình như đã bị hiểu sai. Thầy giáo không nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc, không đọc nhiều tài liệu để tham khảo, mà lại đòi hỏi (nghiêm khắc) học trò phải tự học, nên đọc sách tham khảo… quả là điều xa xỉ.

Thưa, bên trời Tây (văn hóa đại chúng, thông tin truyền thông là chủ đạo) thì sách công cụ có chỗ đứng nào ngoài thư viện?

- Ngoài số người cần nghiên cứu khoa học ra, sách công cụ cũng được các tầng lớp khác quan tâm. Các cuốn sách kinh điển trên các lĩnh vực năm nào cũng in lại. Như năm nay, khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuốn Tư bản của Karl Marx lại được in nối bản.

Ở nước ngoài sách điện tử đang được độc giả ưu chuộng. Nhưng sách số hóa chủ yếu là tiểu thuyết hoặc những sách thuần giải trí, sách công cụ vẫn được người không làm khoa học tìm mua ở các cửa hàng sách một cách bình thường. Tôi ước Việt Nam ta cũng như vậy!

Nhưng sách công cụ của NXB Tri thức vẫn có khách hàng đấy thôi?

- Đúng, dân trí ngày càng cao thì sách công cụ bán được là lẽ tự nhiên. Sau loại sách tiểu thuyết tình ái, kiếm hiệp… họ sẽ có nhu cầu đọc sách cao cấp hơn về khoa học, tư tưởng. Có cuốn như Bàn về tự do của J. S. Mill bán được tới 4.000 bản. Nhưng nếu học sinh được khuyến khích lòng ham đọc sách từ nhỏ thì số sách công cụ được tiêu thụ lần đầu chắc không chỉ dừng ở con số trên. Trong khi chờ đợi cải cách giáo dục, có lẽ các ông bố bà mẹ trong gia đình nên tìm cách hướng dẫn trẻ đọc sách. Bản thân tôi ngoài việc sống ở thời đại quý sách, còn nhờ truyền thống gia đình hun đúc lòng ham mê đọc. Chuyên môn của tôi là khoa học tự nhiên, nhưng những sách về xã hội - nhân văn và đặc biệt là những vấn đề văn hóa tôi đọc với niềm say mê.

Đang ở thời khủng hoảng, sách công cụ lao đao chứ ạ?

- Vừa rồi ở Cần Thơ, Hội nghị tổng kết công tác một năm ngành XB đã đánh giá ngành XB không bị ảnh hưởng nặng từ khủng hoảng kinh tế. Sách công cụ lại càng không. Khó khăn nằm ở chi phí sản xuất. Còn về người đọc, những ai có tiền thường mua sách, thì họ không cắt giảm chi tiêu đến mức… không mua sách nữa. Còn những ai vốn không có điều kiện, gặp khủng hoảng, càng không có ý nghĩ mua sách. (cười)

Sắp tới chúng tôi cố gắng đưa sách công cụ vào các hệ thống thư viện. Chỉ cần một thư viện mua hai ba cuốn thôi, cũng lên tới con số nghìn. Việc này lại cần Nhà nước giúp một tay khi quyết định dùng nguồn tiền để nhập sách gì vào thư viện. Mặt khác, nếu cơ quan nghiên cứu hay trường học nào có nhu cầu dịch sách để tham khảo, NXB sẵn sàng làm hợp đồng theo yêu cầu. Nói chung là tìm mọi cách để đưa sách công cụ đến tận tay bạn đọc, giúp họ bớt e dè với kiến thức hàn lâm.

Xin cảm ơn ông

HÀM ĐAN thực hiện