Trong khuôn khổ sự kiện kỷ niệm 125 năm thành lập tỉnh
Hòa Bình (1886-2011) và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh, UBND tỉnh Hòa Bình đã
tổ chức Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các giá trị của không gian văn
hóa cồng chiêng”. Hội thảo có sự góp mặt của các nhà quản lý địa phương, giới
nghiên cứu và nghệ nhân dân gian, đã tập trung làm rõ những điểm độc đáo của
văn hóa nghệ thuật cồng chiêng Mường và đưa ra nhiều kiến nghị nhằm quản lý,
bảo vệ và phát huy giá trị di sản theo hướng bền vững.
Làm
sáng tỏ giá trị văn hóa cồng chiêng Mường
Văn hóa Mường đã được các nhà nghiên cứu chú trọng vì nghiên cứu văn hóa Mường chính
là gián tiếp làm sáng tỏ văn hóa xa xưa của người Việt do người Mường và người
Việt cùng chung một nguồn gốc. Nhưng với sự giàu có của văn hóa Mường nên công
việc nghiên cứu vẫn chưa làm sáng tỏ đầy đủ các giá trị văn hóa tộc người này,
trong đó có văn hóa cồng chiêng.
Sau sự kiện Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được
UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại (2005) khiến cho hiểu biết của
đại bộ phận dân chúng cho rằng chỉ mỗi cồng chiêng Tây Nguyên là có giá trị! Cho
nên, mục đích trước hết của cuộc hội thảo là phải làm sáng rõ những yếu tố văn
hóa, nghệ thuật cồng chiêng trong đời sống văn hóa của người Mường và những nét
đặc sắc trong nghệ thuật văn hóa cồng chiêng.
Các nhà nghiên cứu thống nhất, chiêng Mường đã cùng tồn tại với trống đồng Đông Sơn cách đây trên
2000 năm. TS Quách Văn Ạch cho biết, tại khu mộ cổ Chăm Mát (TP Hòa Bình),
người dân đã tìm thấy một chiếc chiêng được úp trên mặt trống đồng, cả hai đều
có mức độ ô-xi hóa giống nhau! Một quan niệm khác mà các nhà nghiên cứu tìm
được tiếng nói chung đó là khái niệm “cồng chiêng” trong trường hợp nói về cồng
chiêng Mường là để chỉ một loại hình văn hóa chứ không đơn thuần để nói về nhạc
khí.
Tuy nhiên, còn nhiều điểm quan trọng còn gây tranh cãi. Đa số những người có tham luận tại Hội thảo,
điển hình là ông Triệu Văn Tiến (Phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hòa Bình) chứng
minh sự tồn tại của “không gian văn hóa cồng chiêng Mường” với 4 bộ phận đó là:
Nhạc cụ cồng chiêng, người đánh cồng chiêng, bản nhạc tấu cồng chiêng và không gian trình diễn. Song, TS Kiều Trung Sơn (hỗn
danh là Sơn Mường)-nhà nghiên cứu chuyên sâu về cồng chiêng Mường tại Viện Văn
hóa nghệ thuật Việt Nam không đồng ý với việc “úp” các giá trị của Không gian
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên vào cồng chiêng Mường. Ông lí giải, cồng chiêng
Tây Nguyên là hiện tượng văn hóa-nghệ thuật của vùng
Tây Nguyên với hơn 10 tộc người và còn được bảo lưu gần như nguyên vẹn; cho nên, sử
dụng cụm từ “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là thích hợp. Cồng
chiêng Mường khác ở điểm là sản phẩm của một tộc người và không gian văn hóa
cồng chiêng Mường cổ truyền đã mất từ lâu. TS Sơn cho rằng, cái đúng nghĩa của
không gian văn hóa cồng chiêng Mường chính là xắc bùa (Xắc bùa do một phường
bùa xách cồng chiêng phục vụ các hoạt động mang tính chất cộng đồng như: đón
khách, lễ hội, chúc phúc cho các gia đình nhân một sự kiện vui vẻ…). Ông đề
nghị nên gọi là “cồng chiêng xắc bùa” vừa theo đúng cách gọi của người Mường,
vừa có thể bao quát giá trị nghệ thuật của cồng chiêng Mường.
Cùng với TS Kiều Trung Sơn, nhiều nghiên cứu khác cũng
đã chỉ ra những điểm khác biệt của cồng chiêng
Mường và cồng chiêng Tây Nguyên. Việc làm này không có dụng ý phân biệt giá trị
cao-thấp mà trong văn hóa nghệ thuật chỉ đề cao tính khác biệt; qua đó chứng
minh giá trị nghệ thuật độc đáo của cồng chiêng Mường. Và chính sự hiểu sâu sắc
giá trị văn hóa nghệ thuật cồng chiêng Mường mới định hướng bảo tồn.
Ngoài giá trị cố kết cộng đồng, cồng chiêng Mường còn
là nghệ thuật diễn tấu độc đáo không theo thang âm cũng như điệu thức như cồng
chiêng Tây Nguyên mà tuân thủ quy luật “hạt nhân”. “Hạt nhân” trong các bài
chiêng Mường được tạo thành bởi sự tương tác giữa hai cao độ cộng với tiếng
“khầm” mà người Mường gọi là “boòng beng khầm”,
có giá trị biểu tượng. Trong đó, nhờ có “khầm” (Khầm là từ tượng thanh mà người
Mường dùng để gọi chùm âm do số đông người tham gia dàn chiêng cùng gõ) mà dàn
chiêng hàng trăm chiếc có thể cùng tham gia hòa tấu mà không hỗn loạn.
Tuy còn một số điểm chưa thống nhất, nhưng với các giá
trị văn hóa nghệ thuật của cồng chiêng Mường đã được chứng minh tại Hội thảo,
các nhà nghiên cứu đều cho rằng: Cồng chiêng Mường hoàn toàn xứng đáng được vinh danh là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
Giải
toán bảo tồn và phát huy giá trị di sản
Trong Hội thảo, các nhà nghiên cứu đã dành nhiều lời
khen cho các các cấp chính quyền tỉnh Hòa Bình trong những nỗ lực nghiên cứu,
kiểm kê di sản văn hóa cồng chiêng Mường. Ông Đinh Văn Hòa (Giám đốc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình) cho biết, năm 2000, Hội nghiên cứu Văn
học nghệ thuật tỉnh Hòa Bình hoàn thành đề tài “Sưu tầm biên soạn âm nhạc cồng
chiêng dân tộc Mường Hòa Bình” của nhà nghiên cứu Bùi Chỉ, đã thu âm và ký âm
50 bài chiêng chưa từng công bố. Năm 2010, Sở VH,TT&DL tỉnh Hòa Bình cũng
thực hiện thống kê có 9960 chiếc chiêng trên địa bàn tỉnh.
Công việc trước mặt đặt ra với cơ quan quản lý di sản
văn hóa cồng chiêng Mường là bảo tồn giá trị văn hóa nghệ thuật của cồng chiêng
Mường trước nguy cơ mai một. Những việc cần làm ngay đã nhanh chóng đạt được sự
đồng thuận đó là: Khuyến khích bà con Mường tham gia sinh hoạt cồng chiêng; có
các dự án cụ thể đưa âm nhạc cồng chiêng vào đời sống văn hóa; có chính sách đãi ngộ cho các nghệ nhân còn lưu giữ
các bài chiêng bằng trí nhớ; tập huấn cho những người trong ngành văn hóa để tổ
chức điều tra, sưu tầm các bài chiêng. Ông Bùi Văn Cửu (Phó Chủ tịch UBND tỉnh
Hòa Bình) cam kết, tỉnh Hòa Bình và các tỉnh bạn có người Mường sinh sống sẽ
xây dựng cơ chế, chính sách nhằm quản lý, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
cồng chiêng. Và sẽ đề xuất với Bộ VH,TT&DL xây dựng chiến lược tổng thể,
những biện pháp cụ thể nhằm phát triển văn hóa cồng chiêng trong tiến trình phát
triển kinh tế-xã hội.
Hiện nay, tỉnh Hòa Bình đang đề nghị Bộ VH-TT&DL
xem xét, công nhận “Không gian văn hóa cồng chiêng của người Mường” là di sản
văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Nhiều ý kiến lo xa để tránh buồn gần cho cồng
chiêng Mường khi cho rằng việc bảo tồn và phát huy di sản cần hết sức cẩn
trọng. Trước tiên, cần phải tuyên truyền các giá trị độc đáo của di sản đến các
cấp quản lý và người dân để họ hiểu sâu sắc “báu vật” đang phải gìn giữ. Trong
quá trình bảo tồn di sản, không nên áp đặt ý kiến chủ quan của cán bộ văn hóa
vào hoạt động cồng chiêng nếu chưa hiểu rõ nghệ thuật cồng chiêng sẽ rất dễ dẫn
đến những quyết định sai lầm.
Hiện tại, ở Hòa Bình, du lịch cộng đồng đang phát
triển mạnh. Nghệ thuật cồng chiêng Mường với tính độc đáo và duy nhất ở miền
Bắc hiện đã góp phần tích cực thu hút khách du lịch. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng cần hạn chế những đội chiêng bán
chuyên nghiệp thương mại hóa, bởi không khuyến khích nghệ thuật cộng đồng trong
dân chúng, vô hình trung sẽ tách dần khỏi nhân dân và môi trường trình diễn truyền
thống.
Với nhận thức đúng mức của các ban ngành địa phương tỏ
rõ trong Hội thảo, cùng sự chung tay của các nhà nghiên cứu và nghệ nhân dân
gian, có thể hi vọng về một “báu vật” văn hóa độc đáo của đất nước ta là cồng
chiêng Mường sẽ được gìn giữ và phát huy bằng các kết quả khả quan trong tương lai.
HÀM ĐAN