Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 2010 VÀ 2011: HỒI SINH MỘT GIẢI THƯỞNG DANH GIÁ


Vài năm gần đây, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam luôn gây được sự chú ý của dư luận; chỉ có điều, người ta chờ đợi xem có điểm nào... bất thường hay không? Vì lẽ, qua mấy mùa trao giải gần nhất, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam luôn xảy ra sự cố: Nào là có nhà thơ từ chối nhận tặng thưởng, sếp trong Hội từ chối nhận giải khi bị dư luận phản đối “vừa đá bóng vừa thổi còi”, vô số tác phẩm bị chê là không xứng đáng được vinh danh... Năm nay, ồn ào lại đến chỉ vì mỗi chuyện cỏn con là lùi ngày trao giải vì Hội phải thu xếp đủ tiền thưởng (220 triệu đồng cho 11 giải của hai năm 2010 và 2011) và việc đi lại khó khăn của các tác giả cận kề Tết, ấy thế mà cũng bị nghi ngờ chắc có gì... không ổn nên tính kế hoãn binh. Kể cũng khổ cho Hội, điều quan trọng nhất để đánh giá cái được và chưa được của giải thưởng là chất lượng tác phẩm, thì người ta lại bỏ quên để chú ý chuyện đâu đâu. Nhìn chung, 11 tác phẩm được trao giải và hai tác phẩm được tặng bằng khen thì đa phần đều đáng đọc. Nổi trội hơn cả là ở hai thể loại thơ và tiểu thuyết.

Sau nhiều năm mất mùa, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam tôn vinh 4 thơ đó là: “Bầu trời không mái che” của Mai Văn Phấn, “Sóng và khoảng lặng” của Từ Quốc Hoài, “Ngày linh hương nở sáng” của Đinh Thị Như Thúy và “Hoan ca” của Đỗ Doãn Phương.

Trong số 4 tập thơ được trao giải, “Bầu trời không mái che” (NXB Hội Nhà văn, 2010) của Mai Văn Phấn là tập thơ có nhiều đổi mới hơn cả. Tập thơ này viết theo khuynh hướng của chủ nghĩa siêu thực (surréalisme). Thơ siêu thực xuất phát từ châu Âu từ những năm 1920 với chủ soái là nhà thơ Pháp André Breton (1896-1966). Thơ siêu thực đã xuất hiện trong thơ Việt Nam trong các thi phẩm của Hàn Mặc Tử trước 1945 và mãi đến những năm 1980 trở đi mới trở nên phổ biến. Mai Văn Phấn là người đi sau, ông vẫn đề cao sự liên tưởng phi logic, tư duy thơ đứt đoạn đặc trưng của chủ nghĩa siêu thực, nhưng bớt cực đoan trong thi pháp nên không hề gây khó hiểu. Ngoài ra, tác giả còn dụng công kết cấu tác phẩm thành các khúc tạo ra một cấu trúc âm vang như một tác phẩm khí nhạc.

Việc trao giải thưởng cho một tập thơ siêu thực có thể xem một bước tiến của Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam, như là cổ vũ sự cách tân trong thơ ca. Lâu nay, thơ Việt tràn ngập của lối thơ tiền hiện đại với tư duy thơ liền mạch, sử dụng nhiều vần điệu nên đại đa số người làm thơ và công chúng không thích thơ siêu thực, thậm chí nhiều người còn xem thơ siêu thực không phải là thơ! Thơ siêu thực được xem là là trường phái tiêu biểu của chủ nghĩa hiện đại; một khi trường phái thơ này đã được chấp nhận thì có thể tin rằng, các tập thơ đi xa về phía chủ nghĩa hậu hiện đại cũng sẽ được tôn vinh.

Hai tập thơ “Ngày linh hương nở sáng” của Đinh Thị Như Thúy và “Hoan ca” của Đỗ Doãn Phương lại thêm khẳng định chất lượng của Giải thưởng Hội nhà văn lần này, khi trao giải thưởng cho hai nhà thơ trẻ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam đương đại. Đinh Thị Như Thúy nổi lên từ thơ “Phía bên kia cây cầu” (NXB Phụ nữ, 2007) và tiếp tục sự đổi mới trong “Ngày linh hương nở sáng” (NXB Hội Nhà văn, 2011) khi chiêm nghiệm một cách bớt rối rắm hơn trước về trôi chảy thời gian, sự biến đổi của thiên nhiên và trong lòng người...

Đỗ Doãn Phương được biết đến ngay từ tập thơ đầu tay “Ánh chớp” (NXB Hội Nhà văn, 2006), rồi “Những ngọn triều nhục cảm” (NXB Hội Nhà văn, 2008) cho đến “Hoan ca” (NXB Hội Nhà văn, 2011), thơ Đỗ Doãn Phương không thay đổi nhiều. Anh là nhà thơ có biệt tài trong việc tìm tứ thơ như một ánh chớp hiện ra từ tiềm thức, ví dụ như mấy câu trong bài thơ Giác ngộ: “…Ta ngồi dậy trang nghiêm nhìn/ Đứa trẻ đẹp lạ lùng và người phụ nữ cũng vậy/ Ta điểm lại các việc như trước chuyến đi cuối cùng/ Và chờ khoảnh khắc/ Sang một con người khác!”. Nhược điểm lớn nhất của “Hoan ca” đã có mầm mống từ “Ánh chớp” đó là bị tư duy văn xuôi lấn chiếm khiến thơ Đỗ Doãn Phương luôn rườm lời.

Tập thơ “Sóng và khoảng lặng” của Từ Quốc Hoài có thể xem là một tập thơ không có nhiều đặc sắc. Phần lớn các bài thơ đều viết theo một thi pháp cũ và diễn đạt những tình ý quá quen thuộc, thậm chí có những câu thơ “sến”. Thỉnh thoảng, ông miêu tả chất ảo của hiện thực ông mới có những câu thơ ấn tượng: “…mong sao đó là cơn ác mộng ngày hôm qua/ cái bắt tay đang phân hủy…” (bài thơ “Cuộc đời, đôi khi…”)
  
          Không ấn tượng như thơ, nhưng thể loại tiểu thuyết cũng tìm ra những ra được các tác phẩm đáng chú ý trong đó “Lính trận” của Trung Trung Đỉnh (NXB Hội Nhà văn, 2010) và “Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh (NXB Phụ nữ, 2011) nổi bật so với mặt bằng tiểu thuyết Việt Nam trong hai năm gần đây.

“Lính trận” tuy dựa trên một trận đánh có thật trong kháng chiến chống Mỹ nhưng phần viết về cảnh chiến tranh không nhiều. Trung Trung Đỉnh quá hiểu, nếu một tác phẩm văn chương mà sa vào việc miêu tả những cảnh giao tranh thì không thể tạo sức hấp dẫn, chí ít nếu đem so sánh hiệu quả thẩm mỹ với một bộ phim chiến tranh. Ông chọn cách kể về cuộc sống của những người lính trẻ bảy phần đã người lớn nhưng vẫn còn ba phần trẻ con. Dù ở hoàn cảnh bất bình thường với thân phận là người lính trận nhưng nhìn ở tầng sâu hơn cánh lính trận là những người trẻ, Trung Trung Đỉnh tập trung miêu tả lời nói và hành động đáng yêu, qua người kể chuyện là nhân vật Bỉnh còi bằng một giọng điệu khá tếu. Người đọc hẳn ngạc nhiên hóa ra những anh lính trận bước chiến rất tự nhiên như một việc phải làm. Vì vậy, tiểu tuyết “Lính trận” thoát khỏi tính sử thi như đa phần các tiểu thuyết chiến tranh cách mạng trước đây.

Tiểu thuyết “Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh độc đáo hơn vì tác phẩm này không hoàn toàn là một tiểu thuyết đúng nghĩa, mà nó gần như là một công trình nghiên cứu về Phật giáo ở Việt Nam tương tự như tiểu thuyết “Những người bóng dài” (Hoàng Đình Trực dịch, NXB Thanh Hóa, 1987) của nhà văn Thụy Sĩ Hans Ruesch (1913-2007) như là một công trình dân tộc học để tìm hiểu người Eskimo sống gần Bắc Cực lạnh giá hoặc tiểu thuyết “Thế giới của Sophie” (Huỳnh Phan Anh dịch, NXB Văn hóa-Thông tin, 1998) của nhà văn Na Uy Jostein Gaarder là tiểu thuyết viết về lịch sử hơn 2000 năm của triết học phương Tây. Cũng như đi theo lối “tiểu thuyết nghiên cứu” nói trên, Nguyễn Xuân Khánh sử dụng cốt truyện trải rộng không-thời gian để dẫn nhập vào Phật giáo chứ không xây dựng mô hình nghiên cứu dựa trên các khái niệm khoa học như khoa văn hóa học. Điều này khiến người đọc quên đi mục đích viết về Phật giáo mà ngỡ rằng đây là một tiểu thuyết phiêu lưu của các nhân vật hư cấu. Qua tiểu thuyết “Đội gạo lên chùa”, Nguyễn Xuân Khánh đã làm sáng rõ cái tư tưởng Phật giáo nhập thế thời Lý-Trần hình thành mẫu người vô ngã trong lịch sử Việt Nam trên nền tảng là con người làng xã.

Đáng đọc là vậy, nhưng về cơ bản hai cuốn tiểu thuyết nói trên vẫn được viết theo mô hình tiểu thuyết cổ điển. Việc trao giải lần này có thể xem là thích hợp, nhất là trường hợp “Đội gạo lên chùa” vì nó vinh danh một lối tiểu thuyết hiếm có ở Việt Nam. Nhưng nếu các năm sau, liệu các dạng tiểu thuyết viết theo mô hình mới hơn và đề tài nhạy cảm hơn liệu có được chú ý?

Đáng tranh cãi hơn cả là giải thưởng cho hạng mục lý luận-phê bình. Chất lượng của tác phẩm đạt giải là cuốn “Luận bàn minh triết và minh triết Việt” của cố GS Hoàng Ngọc Hiến chưa cần nói đến nhưng tác phẩm nói trên không phải là công trình nghiên cứu về văn học. Ai quan tâm đến văn học đều biết những đóng góp to lớn của cố của GS Hoàng Ngọc Hiến với khoa học nghiên cứu văn học ở Việt Nam. GS Hoàng Ngọc Hiến xứng đáng đoạt Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam từ lâu và nếu cần vinh danh thì Hội Nhà văn có thể trao giải kiểu “thành tựu trọn đời”, chứ không nhất thiết phải cố trao cho một tác phẩm không có dóng góp nhiều cho nghiên cứu văn học.

Hơi đáng tiếc là hai năm qua khá nhiều tác phẩm văn học nước ngoài nổi tiếng được dịch cẩn thân như: “Tử tước chẻ đôi” và “Nếu một đêm đông có người lữ khách” của Italo Calvino, “Người phàm” của Philip Roth, “Một tiểu thuyết Pháp” của Frédéric Beigbeder, “Người không quê hương” của Kurt Vonnegut... nhưng không có một giải thưởng cho tác phẩm dịch thay vào đó là bằng khen cho bản dịch “Bài hát ngày mai” thơ của Ko Un (Hàn Quốc) do Lê Đăng Hoan dịch.

Dẫu còn nhiều điểm chưa hợp lý, nhưng có thể xem của Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam lần này đã trao cho những tác phẩm xứng đáng nhất và qua đó làm hồi sinh một giải thưởng danh giá của văn học Việt Nam.

          HÀM ĐAN