Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2010

KHAI MẠC ASIAD 16: NGỠ CHỐN BỒNG LAI

Tuy chỉ là Đại hội Thể thao của một châu lục, nhưng Lễ khai mạc Á vận hội lần thứ 16 tại thành phố Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) không hề thua kém bất cứ một Lễ khai mạc Đại hội thể thao nào trước đó về quy mô hoành tráng; và chắc đã hơn hẳn những Lễ khai mạc khác bởi tính nghệ thuật cao hiện thân cho một vẻ đẹp siêu thực khiến người xem ngỡ tưởng đang ở chốn bồng lai, tiên cảnh.

Khởi đầu cho Lễ khai mạc là màn bắn pháo hoa nghệ thuật xung quanh tháp truyền hình Quảng Châu. Giữa màn đêm sâu thẳm, tháp truyền hình Quảng Châu bỗng bừng sáng như một ngọn đuốc tượng trưng cho tinh thần cao thượng mà mọi hoạt động thể thao đều hướng tới.

Sau màn thượng cờ của nước chủ nhà Trung Quốc là hơn một tiếng đồng hồ diễn ra các tiết mục văn nghệ-thể thao đặc sắc. Lấy cảm hứng từ nước, suốt các trường đoạn của chương trình đều biểu diễn trên sân khấu mở với những dòng nước vây quanh và liên tiếp lặp lại những motif mang đặc trưng, tính chất của nước: dữ dội nhưng nhiều khi cũng thật dịu êm.

Khởi đầu chương trình văn nghệ-thể thao là tiết mục nhạc vũ kịch “Con thuyền đại dương”. Màn nhạc vũ kịch mang tính sử thi hùng tráng ngợi ca những con người thủa hồng hoang từ mảnh đất Quảng Châu tìm đường ra biển lớn. Hơn 500 nghệ sĩ đã trình diễn những màn vũ đạo uyển chuyển khắc họa đạm nét hành trình gian nan của con người đi ra đại dương. Trước muôn vàn khó khăn, nhưng nhờ có tinh thần vươn lên và sự đoàn kết con người đã chiến thắng sức mạnh của biển cả. Những con thuyền từ nơi này đã đi khắp muôn phương; từ đó, vinh danh vùng đất này trở thành nơi xuất phát của “con đường tơ lụa trên biển” và cũng hình thành sự phóng khoáng, tính mở cho nền văn hóa và tính cách cộng đồng của người miệt biển.



Phần hai mang tên “Cánh buồm bạch vân” toát lên tình yêu tự do, khát vọng hòa bình của con người nơi đây. Trên nền tiếng đàn thánh thót của nghệ sĩ piano nổi tiếng Lang Lang và tiếng hát dịu ngọt của mĩ nữ Chương Tử Di, những nghệ sĩ nhào lộn đã ghép hình trên không tạo ra những hình ảnh ấn tượng về cánh chim hải âu tung cánh trên nền hình ảnh nền trời xanh mây trắng hiện lên từ những màn hình khổng lồ. Xen lẫn các tiết mục văn nghệ là những màn trình diễn thể thao đòi hỏi sức mạnh và cả sự khéo léo của con người là bơi lội nghệ thuật, nhảy cầu và mô-tô lội nước.



Kết thúc màn văn nghệ-thể thao là tiết mục mang tên “Lời mời hoa thành”. Quảng Châu còn được gọi là “hoa thành”-thành phố của các loài hoa. Để làm nổi bật vẻ đẹp của thành phố và lòng hiếu khách của Quảng Châu, một màn văn nghệ tạp kĩ đầy màu sắc với gam màu nóng từ sắc phục đỏ, da cam và sôi động bởi âm thanh của hàng trăm tiếng trống đã được trình diễn. Nối tiếp là hình ảnh những nữ thần Bảo Bình-người mang nước trong sạch qua màn múa ba-lê.

Ngay sau các màn văn nghệ-kết thúc là Lễ diễu hành của tất cả 45 Đoàn thể thao tham dự ASIAD 16. Trang những trang phục thể tha khỏe khoắn, bộ vest lịch lãm hay là vận trên người trang phục truyền thống độc đáo, các vận động viên-tinh hoa thể chất và niềm tự hào của các quốc gia đã diễu hành trong tiếng nhạc hân hoan chào đoán của các khán giả dự khán trên lễ đài. Đoàn Thể thao Việt Nam diễu hành ở thứ tự thứ 43, những vận động viên nam mặc vest màu đỏ, vận động viên nữ mặc áo dài truyền thống. Đoàn Thể thao Việt Nam dự ASIAD 16 với 267 vận động viên tranh tài ở 26 trong tổng số 42 môn. Đoàn Việt Nam đặt mục tiêu giành từ 4 đến 6 huy chương vàng ở Á vận hội để lọt vào top 20 trong bảng tổng sắp huy chương. Đây là lực lượng vận động viên đông đảo nhất của thể thao Việt Nam ở một kỳ Á vận hội.

Cuối cùng là những diễn văn của các vị lãnh đạo tỉnh Quảng Đông, Tổng cục trưởng Tổng cục Thể thao Trung Quốc, Hội đồng Olympic châu Á chào mừng các vận động viên và kỳ vọng ở một kỳ Á vận hội thành công tốt đẹp. Giờ khắc quan trọng nhất chính thức mở màn cho ASIAD 16 bắt đầu là khi Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tuyên bố khai mạc ASIAD 16.

Những nghi lễ không thể thiếu được ở các Đại hội thể thao bao gồm: kéo lá cờ Hội đồng Olympic châu Á, lễ tuyên thệ của đại diện của vận động viên và trọng tài. Nghi thức quan trọng nhất chính là thắp sáng đài lửa ASIAD 16 khi được thắp sáng từ loạt bắn pháo hoa.

Lễ khai mạc khép lại để mở ra nửa tháng tranh tài của các vận động viên hàng đầu châu Á. Hy vọng về một kỳ Đại hội thể thao trong sáng, đạt được những thành tích cao trong thi đấu và kết nối tình đoàn kết giữa các quốc gia trong châu lục để của một trang sử mới cho lịch sử Á vận hội.

HÀM ĐAN

THỜI ĐÀM (I): DẤN THÂN

Trong nhiều cuộc bàn tròn văn chương, những người trong cuộc hay đặt câu hỏi: “Tại sao văn học Việt Nam không có tác phẩm có tính nghệ thuật cao hoặc tác phẩm ăn khách?” Lí giải thì đã có nhiều nguyên nhân đã được mổ xẻ nhưng có một nguyên nhân ít người đề cập đó là tính dấn thân trong sáng tạo của nhà văn Việt Nam kém hơn so với đồng nghiệp nước ngoài.

Văn chương hay bất cứ công việc nào khác, nếu muốn có thành tựu để đời nhất thiết cần phải có niềm say mê và dành nhiều thời gian cho công việc lao động. Sự lao động trong văn chương không chỉ có mỗi thao tác viết, trước khi viết phải tích lũy lượng kiến thức khổng lồ để động bút thì dễ dàng như cá bơi trong nước như Dan Brown tác giả tiểu thuyết khoa học tôn giáo bán chạy bởi ông là “mọt sách” ngấu nghiến sách sử, sách nghiên cứu tôn giáo khó nhằn. Nhà văn đã dấn thân vào sáng tạo ít khi tham gia những hoạt động chính trị, kinh doanh… mất thì giờ. Chuyện này có thể gói gọn qua câu nói của nhà văn Nguyễn Quang Sáng: “Viết văn không tập trung là thua”. Vậy nên, các nhà văn chỉ cần tìm một nghề để kiếm sống, lắm khi chẳng liên quan gì đến văn chương như M. V. Llosa (Nobel văn học 2010) có thời làm phóng viên thể thao.

Viết văn không chỉ có chuyện thiệt thòi về vật chất mà đôi khi rất nguy hiểm đến bản thân. Sự dấn thân cho văn chương của một số nhà văn đã vượt qua giới hạn thông thường. Marcel Proust mắc bệnh hen suyễn nhưng vẫn muốn đạt đến sự bất tử nhờ viết văn. Hơn chục năm ông đã viết hàng ngàn trang của tiểu thuyết vĩ đại nhất nước Pháp và có lẽ là của cả thế giới Đi tìm thời gian đã mất. Người ta kể rằng: M. Proust đã kịp sửa lại những trang viết cuối cùng vài giờ trước khi qua đời. Một số nhà văn khác đích thực là thánh tử vì đạo như vào năm 1937, F. G. Lorca (Tây Ban Nha), A. Gramcsi (I-ta-li-a) bị bọn phát xít thủ tiêu vì dám viết thơ văn ca ngợi sự tự do, chống chế độ phát xít. Còn trường hợp ngồi tù hàng chục năm như nhà thơ Nadim Hitmet (Thổ Nhĩ Kỳ) thì đầy rẫy. Vì sự sáng tạo văn chương, xem cái chết nhẹ như lông hồng, dễ hiểu vì sao nhà văn thường xa lạ với những điều bình thường trong cuộc sống gia đình như chuyện ly hôn, sống độc thân… Nhưng với những nhà văn, những “tai nạn” trong đời sống lại là động lực cho nghiệp viết y như điển tích “tái ông thất mã”.

Trên văn đàn Việt đôi khi có nhiều chuyện ngược đời, không ít người còn lấy văn chương làm phương tiện cho những mục đích phi nghệ thuật. Những cây bút trẻ mắc bệnh “sốt ruột nổi tiếng” hay viết tràn, mỗi năm mỗi cuốn để có tiếng nhà tài năng trẻ có thể vượt mặt số đầu sách với cụ Tô Hoài. Vài cây bút khác chẳng còn xuân xanh, viết vài tác phẩm để có tiếng là nhà văn và dùng các danh xưng đó để hù dọa người khác. Nước mình chuộng học vấn, chữ nghĩa nên nghe tiếng người này là nhà văn, người nọ là hội viên hội nhà văn, hoặc là hay xuất hiện trên ti-vi thì phục lắm. Nhưng tài năng, đẳng cấp của nhà văn không phải là việc tham gia hoạt động xã hội “cờ, đèn, kèn, trống” mà nằm trong câu nói cũ nhưng mãi đúng đó là “Nhà văn tồn tại ở tác phẩm”. Danh xưng, giải thưởng chỉ có tính tương đối, cái còn lại mãi là nằm ở trong văn bản những gì mà nhà văn đã, đang và sẽ viết ra.

Thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhiều nhà văn đã dấn thân vào cuộc chiến. Không phải tất cả những nhà văn hi sinh trong chiến tranh đều để lại tác phẩm lớn như Nam Cao, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân… nhưng nếu không dấn thân vào khói lửa, họ sẽ không thể viết được ở thời đại của mình. Ở thời buổi toàn cầu hóa, thách thức của nghề văn là: làm sao viết văn có tính nghệ thuật cao, tạo được dư luận chú ý trong thời buổi văn học bị lép vé so với các phương tiện giải trí khác? Sự dấn thân sẽ nằm ở giữ vững niềm tin: kiên trì cho mục đích sáng tạo, dù gặp trở ngại nào cũng không chuyển hướng.

Các nhà văn lớn ở bất cứ đâu và bất cứ thời đại nào khi viết văn cũng xuất phát sự vô tư, trong trẻo kì lạ. Họ viết về những điều ám ảnh, những niềm tin về những điều tốt đẹp về con người. Ngoài tài năng trời cho và kiến văn thông kim bác cổ, điều mà nhà văn lớn nào cũng có đó là sự dấn thân, hiến mình cho công việc sáng tạo mà không quan tâm sẽ được và mất gì. Được viết và còn viết được với nhà văn là một điều hạnh phúc.

Đòi hỏi điều gì hơn đồng nghĩ với sự tham lam!

HÀM ĐAN

THỜI ĐÀM (I): DẤN THÂN

Trong nhiều cuộc bàn tròn văn chương, những người trong cuộc hay đặt câu hỏi: “Tại sao văn học Việt Nam không có tác phẩm có tính nghệ thuật cao hoặc tác phẩm ăn khách?” Lí giải thì đã có nhiều nguyên nhân đã được mổ xẻ nhưng có một nguyên nhân ít người đề cập đó là tính dấn thân trong sáng tạo của nhà văn Việt Nam kém hơn so với đồng nghiệp nước ngoài.

Văn chương hay bất cứ công việc nào khác, nếu muốn có thành tựu để đời nhất thiết cần phải có niềm say mê và dành nhiều thời gian cho công việc lao động. Sự lao động trong văn chương không chỉ có mỗi thao tác viết, trước khi viết phải tích lũy lượng kiến thức khổng lồ để động bút thì dễ dàng như cá bơi trong nước như Dan Brown tác giả tiểu thuyết khoa học tôn giáo bán chạy bởi ông là “mọt sách” ngấu nghiến sách sử, sách nghiên cứu tôn giáo khó nhằn. Nhà văn đã dấn thân vào sáng tạo ít khi tham gia những hoạt động chính trị, kinh doanh… mất thì giờ. Chuyện này có thể gói gọn qua câu nói của nhà văn Nguyễn Quang Sáng: “Viết văn không tập trung là thua”. Vậy nên, các nhà văn chỉ cần tìm một nghề để kiếm sống, lắm khi chẳng liên quan gì đến văn chương như M. V. Llosa (Nobel văn học 2010) có thời làm phóng viên thể thao.

Viết văn không chỉ có chuyện thiệt thòi về vật chất mà đôi khi rất nguy hiểm đến bản thân. Sự dấn thân cho văn chương của một số nhà văn đã vượt qua giới hạn thông thường. Marcel Proust mắc bệnh hen suyễn nhưng vẫn muốn đạt đến sự bất tử nhờ viết văn. Hơn chục năm ông đã viết hàng ngàn trang của tiểu thuyết vĩ đại nhất nước Pháp và có lẽ là của cả thế giới Đi tìm thời gian đã mất. Người ta kể rằng: M. Proust đã kịp sửa lại những trang viết cuối cùng vài giờ trước khi qua đời. Một số nhà văn khác đích thực là thánh tử vì đạo như vào năm 1937, F. G. Lorca (Tây Ban Nha), A. Gramcsi (I-ta-li-a) bị bọn phát xít thủ tiêu vì dám viết thơ văn ca ngợi sự tự do, chống chế độ phát xít. Còn trường hợp ngồi tù hàng chục năm như nhà thơ Nadim Hitmet (Thổ Nhĩ Kỳ) thì đầy rẫy. Vì sự sáng tạo văn chương, xem cái chết nhẹ như lông hồng, dễ hiểu vì sao nhà văn thường xa lạ với những điều bình thường trong cuộc sống gia đình như chuyện ly hôn, sống độc thân… Nhưng với những nhà văn, những “tai nạn” trong đời sống lại là động lực cho nghiệp viết y như điển tích “tái ông thất mã”.

Trên văn đàn Việt đôi khi có nhiều chuyện ngược đời, không ít người còn lấy văn chương làm phương tiện cho những mục đích phi nghệ thuật. Những cây bút trẻ mắc bệnh “sốt ruột nổi tiếng” hay viết tràn, mỗi năm mỗi cuốn để có tiếng nhà tài năng trẻ có thể vượt mặt số đầu sách với cụ Tô Hoài. Vài cây bút khác chẳng còn xuân xanh, viết vài tác phẩm để có tiếng là nhà văn và dùng các danh xưng đó để hù dọa người khác. Nước mình chuộng học vấn, chữ nghĩa nên nghe tiếng người này là nhà văn, người nọ là hội viên hội nhà văn, hoặc là hay xuất hiện trên ti-vi thì phục lắm. Nhưng tài năng, đẳng cấp của nhà văn không phải là việc tham gia hoạt động xã hội “cờ, đèn, kèn, trống” mà nằm trong câu nói cũ nhưng mãi đúng đó là “Nhà văn tồn tại ở tác phẩm”. Danh xưng, giải thưởng chỉ có tính tương đối, cái còn lại mãi là nằm ở trong văn bản những gì mà nhà văn đã, đang và sẽ viết ra.

Thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhiều nhà văn đã dấn thân vào cuộc chiến. Không phải tất cả những nhà văn hi sinh trong chiến tranh đều để lại tác phẩm lớn như Nam Cao, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân… nhưng nếu không dấn thân vào khói lửa, họ sẽ không thể viết được ở thời đại của mình. Ở thời buổi toàn cầu hóa, thách thức của nghề văn là: làm sao viết văn có tính nghệ thuật cao, tạo được dư luận chú ý trong thời buổi văn học bị lép vé so với các phương tiện giải trí khác? Sự dấn thân sẽ nằm ở giữ vững niềm tin: kiên trì cho mục đích sáng tạo, dù gặp trở ngại nào cũng không chuyển hướng.

Các nhà văn lớn ở bất cứ đâu và bất cứ thời đại nào khi viết văn cũng xuất phát sự vô tư, trong trẻo kì lạ. Họ viết về những điều ám ảnh, những niềm tin về những điều tốt đẹp về con người. Ngoài tài năng trời cho và kiến văn thông kim bác cổ, điều mà nhà văn lớn nào cũng có đó là sự dấn thân, hiến mình cho công việc sáng tạo mà không quan tâm sẽ được và mất gì. Được viết và còn viết được với nhà văn là một điều hạnh phúc.

Đòi hỏi điều gì hơn đồng nghĩ với sự tham lam!

HÀM ĐAN