Chiến tranh luôn là một đề tài tạo cảm hứng bất tận cho văn học; trong
đó, tiểu thuyết là thể loại văn học có nhiều thành tựu hơn cả. Mối quan hệ tốt
đẹp này không hề khó hiểu. Trước hết, chiến tranh tạo ra cuộc sống bất bình
thường; những cảm xúc con người lên tới cao độ, nhất là khi đối diện với cái
chết. Để thể hiện sự phức tạp của chất liệu chiến tranh qua phương thức sáng
tạo đặc thù của văn học thì tiểu thuyết tỏ ra có ưu thế bởi tiểu thuyết là “thể
loại duy nhất còn đang chuyển biến” và “nòng cốt chưa hề rắn lại”-như nhà lý
luận tiểu thuyết kiệt xuất người Nga Mi-khai-in Ba-khơ-tin (Mikhail Bakhtin,
1895-1975) từng nhận xét.
Ở các nền văn học phát triển, không chỉ có những tiểu thuyết gia từng kinh
qua chiến tranh mới viết và viết hay về đề tài chiến tranh. Thời gian càng lùi
xa, hiện nay, chính những nhà văn trẻ không biết đến mùi thuốc súng mới đang là
chủ lực làm nên những tiểu thuyết chiến tranh hay nhất. Đặt một sự so sánh với
hoàn cảnh nước ta mới dứt tiếng súng chưa lâu và trong suốt chiều dài lịch sử
trải qua nhiều chiến thắng quân sự oai hùng; nhưng lại không có các tiểu thuyết
xứng tầm. Vì vậy, việc tìm hiểu căn nguyên thành công của tiểu thuyết chiến
tranh nước ngoài và rút ra kinh nghiệm để làm mới tiểu thuyết chiến tranh Việt
Nam là điều cần thiết.
***
Trước khi sáng tác, mỗi nhà văn đều có thái độ nhìn nhận cuộc chiến
dưới góc nhìn cá nhân, điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của các tiểu
thuyết sau này. Về cơ bản thái độ của các nhà văn nhìn chiến tranh theo hai hướng
sau: Thứ nhất, xem cuộc chiến là chính nghĩa hay phi nghĩa. Ví dụ ở Mỹ, các văn
nghệ sĩ nói chung xem việc quân đội Mỹ can dự vào Đệ nhị Thế chiến (1939-1945)
là hợp đạo nghĩa khi họ chống lại phe Phát xít cứu loài người và nhất là họ bị
tấn công trước trong trận Trân Châu cảng ngày 7-12-1941. Ngược lại, với cuộc
chiến Việt Nam, các văn nghệ sĩ Mỹ đều bày tỏ hoài nghi về tính chính đáng
trong việc tham chiến và nuối tiếc cái giá của cuộc chiến là quá lớn. Thái độ
thứ hai là nhà văn nhìn bất cứ cuộc chiến tranh đều là thảm họa cho con người
nói chung. Hai xu hướng trên xuất hiện song song nhau với nhau và đều để lại
tác phẩm giá trị.
Việc lựa chọn khuynh hướng nhằm khẳng định tư tưởng là yếu tố chủ đạo
trong tiểu thuyết chiến tranh chỉ thịnh hành hồi đầu thế kỷ XX như tiểu thuyết kinh
điển “Phía Tây không có gì lạ” (1929) của nhà văn Đức E-ríc Ma-ri-a Rơ-mác
(Erich Maria Remarque, 1898-1970). Ý nghĩa và mức độ tàn khốc của cuộc chiến
như cách liệt kê trong sách giáo khoa lịch sử bị hạn chế tối đa trong tiểu
thuyết chiến tranh đương đại.
Ngày nay, đa phần các nhà văn có thể lựa chọn bất kỳ một cuộc chiến nào
với chức năng làm bối cảnh cho tiểu thuyết để đạt đến mục đích chính là khám phá
tâm lý, tâm linh con người, nhất là người chiến sĩ. Như trong tiểu thuyết “Nhẫn
thạch” của nhà văn Pháp gốc Áp-ga-nix-tan A-típ Ra-hi-mi (Atiq Rahimi) đoạt
giải Goncourt 2008, kể về câu chuyện người phụ nữ Áp-ga-nix-tan chăm sóc người
chồng trúng đạn sống “thực vật” trong một căn phòng chật hẹp. “Nhẫn thạch” có
thể xem là một tiểu thuyết chiến tranh tối giản khi không khí cuộc chiến tàn
khốc ở Áp-ga-nix-tan chỉ hiện diện thông qua tiếng súng vang vọng từ ngoài căn
phòng. Cuốn tiểu thuyết lời độc thoại của người vợ với người chồng còn sống mà
như đã chết, và cô đã nói hết tất cả những ẩn ức dồn nén của người phụ nữ Hồi giáo
mà không cần e ngại vi phạm cấm kỵ. Những lời bộc bạch của cô có lẽ cũng là lời
của một dân tộc đã quá suy kiệt vì chinh chiến suốt hàng thập kỷ. Qua “Nhẫn
thạch”, chúng ta có thể rút ra một kinh nghiệm hay đó là một tiểu thuyết chiến
tranh tầm cỡ không nhất thiết phải sử dụng chất liệu là những trận chiến đẫm
máu với những mốc sự kiện lịch sử cụ thể mà cần chú trọng đến thân phận con
người trong chiến tranh. Chú trọng làm rõ thân phận con người một cách cụ thể,
có chiều sâu lập tức sẽ phản chiếu được tính chất, mức độ... của cuộc chiến.
***
Một vấn đề mà lâu nay người sáng tác văn học ở Việt Nam luôn mắc phải
như húc vào tường là giải quyết vấn đề giữa văn học và hiện thực. Nhìn một cách
cụ thể ở trường hợp của tiểu thuyết chiến tranh, nhiều người lo ngại thế hệ nhà
văn trẻ trưởng thành sau năm 1975 chỉ biết đến chiến tranh thông qua tư liệu sẽ
khó viết hay hơn các tiền bối đã có kinh nghiệm khi vừa cầm bút vừa cầm súng.
Điều lo ngại nói trên là chính đáng nhưng không đáng... lo ngại! Quy luật văn
học cho thấy, không phải cuộc chiến lớn sẽ cung cấp chất liệu để cho ra đời tác
phẩm lớn; đồng thời, nhiều tiểu thuyết gia viết về chiến tranh chỉ thông qua tư
liệu cũng có thể đạt được thành công như trường hợp nhà văn Pháp Alexis Jenni (A-lê-xi
Gien-ni) sinh năm 1963 đã viết tiểu thuyết dày hơn 600 trang “Binh thư của
người Pháp” (2011) đoạt Giải Goncourt 2011 về cuộc chiến của người Pháp Đông
Dương và An-giê-ri.
Khoảng giữa thế kỷ XX là thời điểm các yếu tố đối nghịch với chất liệu
trần trụi, tàn khốc của chiến tranh như trào phúng, huyền ảo... xâm nhập mạnh mẽ
làm phong phú thêm tiểu thuyết chiến tranh, tạo ra những kiệt tác như tiểu
thuyết “Lò sát sinh số 5” (1969) của nhà văn Mỹ Cớt Vôn-nê-gớt (Kurt Vonnegut,
1922-2007) viết về cuộc du hành xuyên thời gian của anh lính Bi-li Phiêu-rum
(Billy Pilgrim) đang tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Với các nền văn
học đi sau như Trung Quốc, Nhật Bản... những yếu tố phi thực khi kết hợp với tư
duy, văn hóa và chất liệu bản địa đều tạo ra những tác phẩm độc đáo như trường
hợp các tiểu thuyết của nhà văn mới đoạt giả Nobel Văn học 2012 Mạc Ngôn. Ở
nước ta, tác phẩm văn học đậm chất phi thực rất hiếm, đặc biệt là trong tiểu
thuyết chiến tranh, không hiểu sao các nhà văn nước ta không thử nghiệm theo
hướng sáng tạo này? Hiện tại, những tiểu thuyết chiến tranh viết theo kiểu hiện
thực “soi gương” gần như không còn được chú ý! Lý do là thời buổi bây giờ là
thời đại nghe-nhìn, tiểu thuyết chiến tranh không thể địch nổi với phim ảnh kể
cả phim tài liệu chiến tranh; thậm chí nếu một loạt bài báo viết về một trận chiến
mà công phu, hấp dẫn có khi còn nhiều người đọc hơn một tiểu thuyết chiến tranh
dày cộp.
Có người sẽ lý luận rằng: Các tiểu thuyết phi thực mới mẻ, hấp dẫn đấy nhưng
sẽ làm mất đi cái nhìn về đầy đủ về cuộc chiến và đề tài chiến tranh cứ phải
viết theo lối viết thực mới hợp lý nhất. Nhưng những người phản bác quên mất
rằng, các tiểu thuyết phi thực chỉ đi tìm cách thức diễn đạt khác chứ mục đích
của nó không khác các tác phẩm hiện thực là đều muốn nêu ra bản chất khốc liệt
của chiến tranh và số phận con người bị thử thách thông qua chiến tranh.
***
Đành rằng, để có một tiểu thuyết lớn nói riêng và một tác phẩm văn học
nói chung điều quan trọng là tài năng cá nhân nhà văn. Song, để có một nền tiểu
thuyết chiến tranh đa dạng và có chất lượng, thiết nghĩ những ai cầm bút đều
phải hiểu biết tối thiểu những đặc trưng của thể loại mới có thể hy vọng có
những tiểu thuyết lớn.
Đầu tiên, tiểu thuyết không phải là tác phẩm tự sự cỡ lớn như lâu nay
nhiều người ở nước ta quan niệm. Tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết khi đi theo nguyên
tắc truyện kể theo xu hướng tiểu thuyết hóa với yêu cầu sáng tạo tự do, mới mẻ
trong cách kể. Các tiểu thuyết chiến tranh của nước ngoài không chỉ đạt đến tầm
cao của tư tưởng mà còn đi rất xa trên con đường hình thức với nghệ thuật cấu
trúc truyện kể tinh vi. Yếu kém trong nghệ thuật cấu trúc văn bản không chỉ có
trong tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam mà còn nhìn rộng ra cả nền văn học. Giải
pháp này thực ra nằm ở chính trong mỗi nhà văn khi anh ta phải luôn tìm cách
đổi mới cách kể nhằm hấp dẫn người đọc.
Đặc trưng quan trọng khác của tiểu thuyết là thể loại cho phép nhà văn
đổi mới ngôn ngữ triệt để. Quan niệm cũ xem ngôn ngữ là phương tiện chứ không
phải mục đích vẫn khá phổ biến. Hầu hết tiểu thuyết Việt Nam đều sử dụng ngôn ngữ
trung tính như lời nói hàng ngày mà quên mất rằng ngôn ngữ có nhiều biến thể
mang tính thẩm mỹ ở nhiều trường hợp khác nhau có thể áp dụng vào trong tiểu
thuyết. Ví dụ như, tiểu thuyết “Đàn hương hình” (2001) của Mạc Ngôn nói về cuộc
loạn chiến giữa quân triều đình nhà Thanh, quân nông dân khởi nghĩa và cả quân
nước ngoài; nhưng sử dụng ngôn ngữ kịch Miêu xoang nên tiểu thuyết trở nên lạ
lùng khi cốt truyện hấp dẫn đặc trưng tiểu thuyết nhưng khi đọc lại cảm tưởng
như đang ở trong nhà hát xem kịch cổ điển.
Tiểu thuyết như đã nói là thể loại tự do nhất trong văn học. Cốt lõi để
có tiểu thuyết hay là nhà văn có nhiều ý tưởng để sáng tạo và quan trọng là có
bản lĩnh dám đi đến cùng những ý tưởng đó không. Chất liệu chiến tranh dồi dào,
nhiều phương pháp sáng tác tiên tiến đã và đang được phổ cập ở Việt Nam, đó là
những cơ sở để tin nhà văn Việt Nam sẽ sáng tác được nhiều tiểu thuyết chiến
tranh hay trong tương lai.
HÀM ĐAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét